Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2020

Song Thất Lục Bát Chùm Số 272



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 38

Sách y học nhân tri bách bộ
Gía gương hình theo đó kê toa
Ngư khen như gấm thêu hoa
Nhớ lời Đạo Dẫn dạy ta rành rành


Nguồn cội ấy sáng danh trời đất
Phải dựa theo vẽ thật giống ta
Đại huynh giảng lại rõ ra
Máy trời trọn lọc trong ba hình người

Từ cổ kim bao đời truyền thụ
Mười can sinh chi hóa mười hai
Nội kinh luận ngữ chẳng sai
Âm dương tứ đại muôn loài hữu sinh

Dần ứng phổi thơ minh đường đó
Ruột già kia với mão đứng nhìn
Dạ dày lại ứng với thìn
Cho hay lá lách tỵ gìn giữ cho

Mùi ruột non tim dò đường ngọ
Bọng đái thân thận dậu màng tim
Tuất đừng mải miết đi tìm
Tam tiêu ứng hợi cánh chim hải hồ

Tý với mật sửu vô gan đó
Âm với dương thân có trẻ già
Ngũ hành tuần tự phân chía
Mười hai kinh lạc trau tria góp phần

Nhiều khoa thuốc thế nhân liệu tính
Tiều chưa rành minh định ra sao?
Dẫn từng chỉ bảo khi nào
Sơ qua mấy vị hư hao tháng ngày

Học phải hành xưa nay kinh nghiệm
Đường Nhập Môn màu nhiệm sách thày
Kỳ Nhân Sư, vốn thẳng ngay
Biết bao tinh túy hàng ngày truyền cho

Đường dẫn kinh cần lo thang thuốc
Cân từng ly mà bốc cho tường
Bàng quan kinh túc thái dương
Thuận theo kinh thủ tiểu trường đọc tên

Đường cao bản dẫn lên khương hoạt
Hoàng bá thì phải thoát chớ lầm
Đừng quên kinh ấy thiếu âm
Hợp thành túc thận thủ tâm hai phần

Trong hoàng bá tế tân tri mẫu
Khương hoạt coi thận dẫu đã chuyên
Thiếu dương kinh hỏa biểu truyền
Túc thành phủ đảm nối liền tam tiêu

Vị xuyên kung là điều ghi nhớ
Với sài hồ để trợ thanh bì
Trị tiêu xuống dắt một khi
Nhờ chàng túc quyết tới thì âm can

Hai đàng kinh gian nan môn hỏa
Thủ mệnh kia chuyển hóa thanh bì
Sài hồ rễ thoát kinh đi
Xuyên khung y lý nhâm nhi một đường.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
18.4.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 39

Kinh thủ đại đồ trường ăn chứa
Dương minh hương vị ứá cát căn
Thăng ma bạch chỉ dâng tràn
Thạch cao lên xuống dịch toan dẫn truyền

Thái âm kinh dĩ nhiên thủ phế
Túc tỳ kia hai thể đường y
Thăng ma bạch thược vào tỳ
Thung đi cát cánh vân vy phế đình

Vào bạch chỉ dẫn kinh các vị
Nhận trong ngoài chứng chỉ khỏi lầm
Ba dương rồi lại ba âm
Sáu kinh dón lại chứng nhầm thì sao?

Nhập Môn bệnh mới vào cảm cúm
Sáu kinh kia co cụm rõ ràng
Thái dương nóng huyết mê sàng
Cứng đơ xương sống đau ngang ống quần

Thiếu dương cũng phân vân nóng lạnh
Phải coi chừng từ nách xuống hông
Tai ù miệng đắng biết không?
Dương minh khát cổ hơi nồng miệng hôi

Mắt sưng tấy ôi thôi mũi đỏ
Táo bón ngồi nhăn nhó khó tiêu
Chẳng nằm từ sáng tới chiều
Nhấp nha nhấp nhổm liêu xiêu hãn dầm

Thấy nước vàng da ngâm ban mọc
Vào ra càng khó nhọc đôi chân
Thiếu âm họng lưỡi khô khan
Rên la khát nước góc màn nằm co

Quyết âm càng hung no gân giật
Dái thụt vào bần bật lưỡi cong
Nhăn nheo âm hộ co vòng
Thái âm đau bụng lưng còng gối ôm

Không ỉa được chồm hôm nhà xí
Rách hậu môn tắc bí vô cùng
Tái xanh thảm hại não nùng
Ban ngày mê ngủ hãi hùng Phong Đô

Để lâu ngày dồn xô đủ dạng
Đường truyền kinh, phủ tạng chẳng tinh
Mang câu “ dẫn khẩu nhập đình “
Làm sao tránh khỏi bệnh tình phát to

Thoát sao khỏi vòng vo y học
Bậc đại phu biết trước chăm lo
Học y muốn khỏi tội to
Lâm sàng triệu chứng phải dò căn nguyên

Viết lời ca thày truyền bí quyết
Kỳ Nhân Sư khẩn thiết yêu cầu
Ta xin đọc lại từ đầu
Sẵn đây giấy mực từng câu chép vào

Trong ngoài hợp làm sao chứng tỏ
Lẽ hằng nhiên thấu rõ đổi dời
Theo niên năm vận tiết trời
Ứng cùng sáu khí ở người mà ra.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
19.4.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 40

Có bốn mùa ngày qua tháng lại
Trong một năm quan tái giang san
Tránh sao cảm lạnh thương hàn
Hoành hành dịch cúm lan tràn đó đây

Cũng lắm kẻ còn gây dịch bệnh
Lợi ích riêng toan tính tà quyền
Mưu đồ hủy diệt thiên nhiên
Bán hồn cho quỷ đảo điên nhân loài

Khí nào hơn nguôi ngoai trăm nỗi
Lạị vẽ bùa tội lỗi đua nhau
Thương thiên hại lý khổ đau
Ngũ hành xung khắc bạc màu tang thương

Biết bao cảnh thê lương ảm đạm
Bệnh nội thương ngoại cảm khí trời
Ngoài tiêu trong bản chơi vơi
Lần vào sáu phủ mạng người mong manh

Trong năm tạng ngũ hành chi phối
Phải phòng ngừa lạc lối tinh thần
Toàn thân co rật bất an
Phải chăng bởi chứng thương hàn thì sao?

Ta cũng biết tạng nào mạch thể
Từ tâm can tỳ phế thận danh
Tử sinh xung khắc năm hành
Gỉa như tâm hỏa sao đành bỏ qua

Cũng tùy theo từng mùa khí tượng
Bệnh nảy sinh theo hướng hỏa tà
Xem ra trong cõi người ta
Phải chăng thận thủy đắm sa lăng loàn

Hai tạng ấy mà bàn tận gốc
Thổ tỳ kim phế mộc chi can
Ai hay từ đệ nhất quan
Chứng nào tật ấy thương hàn gây ra

Không hiểu biết cho là quỷ ám
Bệnh nội tâm lại cảm trúng thương
Sách ghi chữ “trúng” chữ “thương”
Cho hay tà độc khí thường nhiễu nhương

Cơn mưa gió bất thường u uất
Hơi độc bay cảnh thật thê lương
Núi đầm khe suối ruộng nương
Bản làng xơ xác chán chường heo may

Bệnh phong thấp tới nay nhân thế
Thở khò khè thân thể lừ đừ
Gật gà buồn ngủ ậm ừ
Mạch phù uể oải đau nhừ chân tay

Bệnh ôn độc nổi ngay như gấm
Thân phát vằm lảm nhảm thường xuyên
Nhức đầu nóng sốt liên miên
Mồ hôi như tắm uống liền thần sa

Ngư nghĩ bụng thật là cay đắng
Dưới vòm trời  bệnh trạng khác nhau
Sư huynh cửa đạo đã lâu
Mấy tầng nhà kín buồng sâu tận tường.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
20.4.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 41

Chứng nan giải mọi phương cứu chữa
Kỳ Nhân Sư chan chứa tình người
Không hề nhầm lẫn tới nơi
Kê đơn bắt mạch trọn đời lương y

Đường Nhập Môn Đan Kỳ theo học
Suối nai cười chim chóc thiết tha
Âú trùng thảo mộc bao la
Nho sư dạy bảo thơ ca lưu truyền

Lắm chước hay thiên nhiên ưu đãi
Pho sách dày để lại hậu sinh
Tôn sư y thuật cao minh
Sang hèn chẳng kể tận tình thuốc men

Các đệ tử luyện rèn năm tháng
Sáu phủ cùng năm tạng coi chừng
Mạch phân chớ có lừng khừng
Chỉ ưa thực tế chưa từng biện minh

Môn giảng giải khí sinh cam chịu
Phải chăm lo bìu ríu gia đình
Ốm gầy béo chắc dáng hình
Khác nhau tạng phủ cảnh tình đớn đau

Chứng hư thực ló màu từa tựa
Thày thuốc cần phải dựa như từ
Thực là khí thịnh có dư
Hư làm bất túc lừ đừ co ro

Tròng mắt đỏ hay lo tức giận
Can thực thời sân hận sảy sần
Can hư dưới nách giựt gân
Móng tay khô biếc toàn thân mỏi mòn

Thần thức lại héo hon ủ rũ
Cười dằng dai lụ khụ vô duyên
Nhức đau vai nách nối liền
Hông càng ê ẩm sầu miên u hoài

Tâm sợ sệt vật nài sướt mướt
Lưỡi cứng đờ thườn thượt âu lo
Vị tỳ khí trướng bụng to
Nặng nề mình mấy ốm o xanh rờn

Chẳng khác gì thờn bơn méo miệng
Nói không nên tắt tiếng nửa chừng
Tỳ hư âm khí chẳng dừng
Ỉa nhiều ăn ít lừng khừng vào ra

Ruột lồi đỏ rên la đại tiện
Phế quản khan ho xuyễn mãi thôi
Hồn mây ngơ ngác nổi trôi
Lưng đau vế nhức mồ hôi ướt đầm

Nghe hơi thở vắn trầm đứt quãng
Bước chân đi loạng choạng vách tường
Miệng khô đắng chát thất thường
Đái vàng ỉa rót thảm thương vô cùng

Mặt thâm tím nổi hung vô cớ
Thận hoại thư nhăn nhó tai kêu
Chứng trong năm tạng chẳng đều
Bệnh ngoài sáu phủ tiêu điều kiệt suy

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
20.4.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 42

Kê đơn thuốc phải tùy thể trạng
Đảm thực thời bộ dạng khác chừng
Xem ra phủ mộc hừng hừng
Thân tâm phờ phạc lừng khừng bất an

Cũng bởi tại dịch toan hư ẩu
Vẫn thất thường bậu xậu hoài nghi
Mơ màng nhăn nhó bí dì
Tiểu trường đắng miệng li bì hỏa xung

Mấy lèo ruột bùng nhùng sôi sục
Dãi nhớt ra lục cục dưới đì
Cơm rau hành tỏi xầm xì
No phình báng bụng thầm thì chẳng tiêu

Đại trường tụ kim nhiều khí độc
Ruột dao bào phút chốc quặn đau
Dạ dày ắt phải trước sau
Khí hàn tràn ngập mau mau ỉa liền

Thận bàng quan dẫn truyền khí trước
Cổ nóng ran khác nước liên miên
Mồ hôi nhớp nhúa đan điền
Bào trơn đái dắt ứ dền chảy tuôn

Tam tiêu chỗ hơi luồn là phủ
Ba luồng hơi tiêu hóa uống ăn
Sững hơi da sủi khô khan
Đái vàng táo bón khó khăn vô cùng

Bệnh lắm khi mịt mùng khó đoán
Phải xiêng năng kỳ hạn coi chừng
Hư dồn khoảng trống hàn ngưng
Đái dầm ỉa són lừng khừng chậm tiêu

Nơi tạng phủ tật nhiều lắm chứng
Khí âm dư chẳng những khác nhau
Huống chi bệnh mới bệnh lâu

Bệnh già bệnh trẻ gan cầu thực hư

Bệnh mãn tính khó trừ tận gốc
Bệnh người già trẻ bốc hơi tà
Từng phần biểu lý chia ra
Khi hàn lúc nhiệt như ta luận bàn

Câu biểu lý nhiệt hàn nẻo ấy
Dù thực hư phải thấy mới thôi
Lời ta đâu phải xa xôi
Thực thì tả thực hư rồi bổ hư

Cổ chí kim nhân từ y thuật
Bậc đại phu chân thật mọi thời
Chứng hư làm thực lỗi ngươi
Thực hư thày thuốc giết người không dao

Hồn tức tưởi âm hao ôn dịch
Độc dữ hơn phải tính thiệt hơn
Bệnh nhân chớ để oán hờn
Xế chiều đom chập chờn bóng ma

Lời Nhân Sư khuyên ta ghi nhớ
Thày dạy khôn tạng phủ sánh coi
Trong ngoài hư thực rạch ròi
Phẩm bình đối chứng mặn mòi tha nhân.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
21.4.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 43

E tả thực phân vân bối rối
Dễ sai ngoa tội lỗi sa bà
Các kinh đều có hỏa tà
Thuốc dùng xung khắc gây ra mọi đằng

Bùa linh thày rõ ràng vẽ đủ
Các đạo thường tra cửu hỏa tìm
Sài hồ bạch thược im lìm
Hỏa tà lá lách bệnh dìm mất tiêu

Vị thuốc đắng đúng chiêu gan mật
Tri mẫu kia chẳng trật đi đâu
Hỏa còn ở thận bao lâu?
Mộc thông mới thật nhiệm mầu ruột non

Hoàng cầm lại sắt son công dụng
Bệnh ruột già trị đúng căn nguyên
Sài hồ ta vẫn thường xuyên
Tam tiêu bệnh khỏi thiên nhiên lạ kỳ

Hoàng bá trị chứng suy bọng đái
Kỳ Nhân Sư vạn đại thời gian
Ngư Tiều bệnh tật nguy nan
Biết đâu ngoại cảm vô vàn nội thương?

Phải phân biệt bất thường nội ngoại
Chốn dân gian quan tái xa xôi
Nhập Môn đủ cách trị rồi
Nội thương ngoaị cảm hai hồi phân minh

Nội thương bởi thất tình lục dục
Chẳng giữ gìn phàm tục sa đà
Bệnh từ năm tạng gây ra
Ngoại thương nổi hứng xông pha cát lầm

Khiến sáu phủ tà dâm hủy hoại
Thói lăng loàn cuồng dại ăn chơi
Thâu canh sàm sỡ lả lơi
Bán nhà đổi lấy trận cười phá gia

Để ngàn năm khắc bia đội đá
Tiếng còn lưu xuân hạ thu đông
Cờ đen quạ mổ trên đồng
Vành tang nấm mộ bềnh bồng khí âm

Coi mạch lý âm dương tương khắc
Khí âm nhiều xơ xác thân tâm
Ai hay ngoại cảm mạch trầm
Mạch phù thấy rõ âm thầm khổ đau

Bệnh nội thương đua nhau ăn uống
Nhậu nhẹt nhiều mộng tưởng mê man
Mạch cường bụng trướng xưng gan
Rên la nóng lạnh than van mãi hoài

Ngoại thương cũng dằng dai nôn mửa
Chứng ố hàn bếp lửa lạnh lùng
Nội thương rét cũng vô cùng
Toàn thân lẩy bẩy mền mùng còng queo

Chứng ố phong hắt heo gió thoảng
Sợ bắn người loạng choạng cửa nhà
Ngoại thương hơi thở phì phà
Mũi thì tắc cứng hoặc ra nước bồi.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
21.4.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 44

Nội thương ở lưỡi môi thấy rõ
Vị giác không chứng tỏ bất hòa
Cần coi thật kỹ da xoa
Lưng bàn tay nóng ấy là ngoại thương

Chứng nội thương khác thường phải biết
Lòng bàn tay nóng thiệt chẳng sai
Ngoại thương đầu nhức nhối hoài
Tĩnh tâm truyền lý nguôi ngoai nhức đầu

Nội thương cũng nỗi đau buồn bực
Trước tưởng êm sau nhức không chừng
Ngoại thương giọng nói ngập ngừng
Lời ra trước nhẹ lừng khừng nặng hơi

Nội thương dễ tuôn lời hăm hẹ
Trước hay sau nặng nhẹ ít hơi
Đã đành dương khí đất trời
Lây lan mấy chứng bệnh thời đua nhau

Phép kìm hãm chỗ đau mà trị
Phải trước sau phối trí bao điều
Coi chừng bởi nội thương nhiều
Trị tiêu ngoại cảm mấy chiêu quen dùng

Chầy hoặc kíp cùng chung biện pháp
Phát tán ra bản hạp hữu dư
Thời chuyên tận gốc bổ hư
Gọi là bất túc chứng từ chỗ đau

Nội ngoại đều như nhau thế đó
Bản tiêu kia thuốc có màu phân
Ngoài thăng trong giáng chẳng cần
Sáu phần trị ngoại bốn phần trị trong

Ta cũng biết chẳng đồng chầy kíp
Ít phần ngoài chữa kịp phần trong
Nếu không tính mệnh long đong
Xưa nay trị liệu theo vòng kỷ cương

Học sơ sài dễ thường cùng quẫn
Lang băm hay sân hận chữa liều
Thói dơ học lỏm mấy chiêu
Trong thì bất túc ngoài đều hữu dư

Bởi hai chữ thực hư lạc lối
Y chẳng thông thuật rối tơ vò
Bất cần mạng sống chữa mò
Tốn tiền bệnh nặng ốm o dật dờ

Tiều cho rằng dễ dò sông biển
Bệnh thật tình ẩn hiện mịt mờ
Phép y thổ hãn hạ chờ
Làm sao thoát khỏi dật dờ hồn ma

Tránh sai thuốc cảnh nhà tan tác
Bệnh càng tăng xơ xác nhân tâm
Sách coi tường tận kẻo lầm
Nhân Sư truyền dạy rừng lâm giúp đời

Môn giảng giải trong người nóng lạnh
Khắp toàn thân kinh mạch hầm hầm
Gỉa hàn giả nhiệt dễ lầm
Bệnh tình phát tác ngấm ngầm dung y.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
22.4.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 45

Ngoài giả lạnh tứ chi khô họng
Nước đái vàng nhiệt nóng ngoài da
Trùm không khát nước đái ra
Nước trong hàn giả rõ là ấm chân

Hơi nóng giả phân vân thời lạnh
Âm đới dương chứng cách cho tường
Ngoài rờ hầm hập trong thường
Bên trong thấy lạnh chán chường khí âm

Phép y trị chớ lầm hàn nhiệt
Chàng chớ quên nhất thiết” ôn lương”
Hai bên chân giả tận tường
Vọng, văn, vấn, thiết nhiều đường âm dương

Không định kiến mọi đường cứu chữa
Phép thổ y hãn hạ ai hay
Đại phu bốc thuốc khéo tay
Cao nhân chứng thực đạo thày sáng danh

Thổ vì tà thực hành dám chẹn
Thượng tiêu còn tức nghẹn hơi ngăn
Hãn vì biểu thực tà căn
Mồ hôi dàn dụa nằm lăn ra giường

Càng vật vã bất thường gập bụng
Hạ vì tà mà trúng âm kinh
Đớn đau cũng bởi do mình
Tà như xen nửa thực tình vào trong

Nghề thuốc giỏi thong dong hòa giải
Y thuật cao phải trái giãi bày
Biểu hư phép hãn mới hay
Hợp làm thanh giải cho tày kinh dương

Lý hư kia bất lương phép hạ
Cố hợp đường tiêu bổ kinh âm
Phải chăng mấy bệnh u thâm
Hạ lầm âm thoát hãn lầm vong dương

Ôi cũng lắm sách phương thuốc khác
Bổ hòa, công, tán, xác thân cho
Tổ sư căn dặn nguyên do
Chứng coi tận mắt mạch dò ngoài trong

Còn dốt nát chẳng thông sách thuốc
Đáng bổ thì tả, gốc công làm hòa
Khiến ai mở cửa dắt tà
Chứng khinh làm trọng học ra hại người

Ngư than thở cảnh đời trôi nổi
Học thuốc sai lạc lối chân trời
Bám theo kiến thức lỗi thời
Tầm chương trích cú nhiều nơi mịt mù

Cõi hoàng tuyền âm u khí lạnh
Chốn dương trần oán trách chi ai
Nỗi buồn mãi chẳng nguôi ngoai
Cứu người một mạng xây đài vinh quang

Câu kinh luận ngỡ ngàng đâu đó
“Cang hại thừa chế” ở khí  vần
Nhãn quan chưa rõ máy thần
“Cang hại” hai chữ cổ nhân muộn phiền.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp

22.4.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 46

Môn cho rằng tự nhiên thiên bẩm
Thái cực sinh gốc thấm tình người
Âm dương năm tạng tìm nơi
Giao hòa phối ngẫu muôn đời cặp đôi

Quân hỏa cũng nửa vời âm hóa
Thủy khí theo tướng hỏa mà thừa
Ai hay thủy xuống hỏa dư
Thổ suy mộc khí lừ đừ lần theo

Nếu mộc xuống hắt heo kim khí
Kim yếu dần hỏa thị sang hòa
Âm dương như thể hai nhà
Năm hành thắng thế mới ra tật tàn

Hơi dâm thái gian nan cang quá
Dục đợi chờ hỏa họa dây dưa
Khí cang giờ lại dư thừa
Lẽ trời báo ứng chẳng chừa ai đâu

Trong kinh luận một câu ghi nhớ
Nghĩa con vì mẹ nợ trả xong
Thù ai cậy thế nạ đòng
Chờ thời dưới cũng cầu mong phận mình

Như quân hỏa chẳng bình cang động
Hại âm tình ác mộng phế kim
Biết ngay thận thủy đắm chìm
Thuận luôn chế hỏa dằn kìm hơi cang

Lấy đôi thủy hỏa, dàng cho vững
Để kim, mộc, thổ cũng như đây
Khen cho con tạo dựng xây
Âm dương sinh tử bấy chầy hóa công

Hay ở chỗ gieo trồng sự sống
Cùng núi sông chuyển động không ngừng
Hết cùng tắc biến chẳng dừng
Tĩnh kia động nọ nửa chừng lấn nhau

Theo năm tháng bạc màu sương gió
Sinh diệt hoài chăng chớ dằng dai
Đến khi cang cực nghiêng vai
Chữ rằng một cực kim cài hỏa xông

Hỏa cực độ sắt ruồng tự thủy
Thủy cực thành thổ lụy dưỡng doanh
Thủy dù sang mộc cũng đành
Muôn loài thụ tạo sinh thành thế gian

Cùng tinh tú tuần hoàn vũ trụ
Máy nhiệm màu đồn trú trước sau
Thử xem phong mộc làm đau
Vẫy vùng kiệt sức về sau nghiêng mình

Kim khắc mộc bất minh phải tính
Động kinh qua giữ tĩnh hết tình
Biết ngay thấp thổ cực hình
Gân run thịt nhão giật mình tay chân

Thổ cùng cực bất thần tự mộc
Tĩnh quá lâu động bốc mới xong
Xem hai chứng ấy tạc lòng
Dù cho bách bệnh xét trong dò ngoài

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
23.4.2020 Lu Hà




Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 47

Nhân chứng tự dương sai âm đấy
Trong y khoa phương ấy dễ lầm
Bỏ qua quy luật âm dương
Biện câu “cang hại“ giết lầm người đau

Chẳng có thuốc dễ mau chuyển bệnh
Ngẫm câu thừa chế chểnh mà khinh
Lạnh qua nóng lại khuyên mình
Hoặc chờ ngày đến truyền kinh tự lành

Thể theo ý mà nhanh khỏi bệnh
Xét hợp thời mà tính cho ra
Khí cang làm hại người ta
Khí thừa trách cứ nôm na vội vàng

Ngư cho rằng xênh xang tạng phủ
Lắm nguyên nhân bệnh ủ khác xa
Chúng sinh muôn cõi quan hà
Âm dương chứng ấy sao mà giống nhau

Bởi con tạo trước sau tuần tự
Máy âm dương thứ tự dãi dầm
Thị phi điều tiếng dễ lầm
Nhập Môn: Dương chứng tự âm phơi bày

Trong nóng ran ai hay lạnh ngắt
Phía ngoài da con mắt đỏ vàng
Xa xôi giọng nói mơ màng
Miệng khô lưỡi rát hai đàng nguy nan

Mạch Sác nhảy đái tràn ỉa bón
Nước tiểu vàng dương lộn giả hàn
Trùm chăn chiếu đắp kêu than
Hợp cùng thuốc mát trấn an kịp thời

Tự âm vốn bao người lầm tưởng
Chẳng phải hàn bởi trướng khí lâu
Bốc thang giải độc hàng đầu
Bớt đau đỡ nhức một câu ghi lòng

Cũng như âm tự dương ái ngại
Nóng ngoài da trong lại lạnh tanh
Đùn ra nước dãi đã đành
Dộp môi, nhớt miệng, mục thanh, mạch trì


Trùm mền kín bố vi che đậy
Nước chẳng đòi ỉa thấy bã hèm
Nói năng lảm nhảm quấy sàm
Nên dùng thuốc ấm tự làm khí dương

Thuốc ôn trị thông thường mắc chứng
Thành lý trung, tứ nghịch các phương
Chao ôi sao lắm tục công
Âm dương tương khắc chẳng thông sẽ lầm

Tự phản nhau dương âm cang cực
Cổ chí kim y chước lẽ thường
Cao nhân học tập từng chương
Bao lời ca quyết tìm đường lần ra

Dương tựa âm dễ mà lường trước
Chân tay run thao thức chẳng yên
Phều phào táo bón phân đen
Dầm dề nước tiểu bao phen đỏ hồng

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
25.4.2020 Lu Hà




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét