Thứ Tư, 14 tháng 10, 2020

Lu Hà Và Khuyết Danh Chùm Thơ Số 11

 

Oan Khiên Bồ Tát

Cảm xúc thơ khuyết danh bài 11

 

Trên sân đình châu rơi lã chã

Tiểu Kính Tâm lòng dạ hiền lương

Tai bay vạ gió bất thường

Cây rung dòng lệ khói hương mịt mù

 

Miệng tụng kinh âm u gió chướng

Aó cà sa đâu vướng bụi trần

Tay lần tràng hạt phân vân

Giai không tứ đại xót thân bồ đề

 

Chẳng lẽ nào say mê lầm lạc

Nẻo trần ai không sắc chưa thông

Tiểu tăng sàm sỡ má hồng

Bướm ong dan díu chất chồng nghiệp mang

 

Kẻ xuất gia đạo tràng giữ giới

Quen mùi thiền sớm tối dâng hương

Trọn lòng sống với Phật đường

Trai phòng thủ tự chẳng vương vấn đời

 

Làng chẳng nghe những lời chân thực

Thị Mầu càng thổn thức khóc than

Kính Tâm thày tiểu dối gian

Rắp ranh bẻ liễu lường gàn tiểu tinh

 

Các phụ lão bất bình la lối

Phải lôi ra hạch tội Kính Tâm

Thảm thê thân xác tím bầm

Đánh cho tiệt nọc gian dâm lăng loàn

 

Chẳng chịu khai mưu toan trí trá

Cứ chai lỳ sắt đá trơ trơ

Xem ra cũng thật đáng ngờ

Sùng bà nhăn nhó tiểu thơ chau mày

 

Trận mưa đòn ghê thay nhân thế

Khắp mười phương nhục thể tang thương

Lệ làng chánh pháp nhiễu nhương

Trời sầu đất thảm thê lương hãi hùng

 

Nỗi oan khiên tận cùng xã hội

Cứ khăng khăng buộc tội người ta

Trắng đen trong cõi sa bà

Thương thiên hại lý cảnh nhà lầm than

 

Sư trụ trì chứa chan giọt lệ

Cầu dân làng vị nể tha cho

Tiểu tăng tuổi trẻ ngây thơ

Tấm lòng Bồ tát đợi chờ cưu mang

 

Sư bảo lãnh sẵn sàng nộp phạt

Tiền nhang đèn cúng Phật muôn phương

Dẹp cơn thịnh nộ đám đông

Đưa nàng về chốn thọ đường dưỡng thương

 

Tiểu Kính Tâm chẳng vương vấn bụi

Cõi hồng trần buồn tủi làm chi

Trọn lòng tinh tấn tu trì

Kinh Ba la mật dương chi thấm nhuần

 

Tưới cam lồ tinh thần mẫn tiệp

Tịnh độ thông tu tiếp thảnh thơi

Dần dà Thày mới ngỏ lời

Dù sao cũng để tiếng cười chê bai.

 

*Nguyên tác lục bát “Quan Âm Thị Kính“

9.7.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Oan Khiên Bồ Tát

Cảm xúc thơ khuyết danh bài 12

 

Cửa tam quan mái ngoài đã dựng

Hãy tạm thời chịu đựng ít lâu

Mỉa mai cam chịu cơ cầu

Muối dưa đạm bạc dãi dầu tuyết sương

 

Phật tại tâm dẫn đường hạnh ngộ

Dù ở đâu con chớ nghi ngờ

Cũng nên gắng gượng làm ngơ

Giải oan cắt kết thoát bờ trầm luân

 

Đợi đến ngày lục căn thanh tịnh

Con thành tâm Phật tính hiển danh

Đệ tam Sư tổ tạo thành

Đoạn trừ phiền não trời xanh tỏ bày

 

Thày không tin chuyện này có thật

Chắc có điều uẩn khuất gì đây

Rồi đây mọi sự phơi bầy

Trắng đen rõ cả đọa đầy tiêu tan

 

Nàng quỳ xuống ứa tràn khóe hạnh

Nông nỗi này dám trách chi ai

Phúc lành ứng quả thiện tai

Tiền duyên ân trạch khứ lai kim thằng

 

Vòng kim cô dây vàng thắt chặt

Kiếm thất tinh Bồ tát ba tiêu

Thoát sao miệng lưỡi cú diều

Nhẫn tâm vu khống đặt điều điêu ngoa

 

Nào ai hay trên tòa sen ngự

Độ Kính Tâm Vân tự nẻo xa

Nương mình bên khóm cúc hoa

Một hai luống cải dăm ba cụm hành

 

Lều một gian buông mành trúc bạch

Dưới ngọn đèn kinh sách chân tu

Nhạn bay gió thổi vi vu

Song thân chống gậy vân du cuối trời

 

Nhà ta đó về nơi đoàn tụ

Thân liễu bồ trú ngụ ẩn danh

Cù lao nặng nghĩa sinh thành

Trần gian trả nghiệp con đành dời xa

 

Nạn Cự môn ngỡ đà qua khỏi

Thái tuế kia soi mói tới đây

Tiền sinh nghiệp chướng còn đầy

Hai phen ràng buộc đọa đày não thân

 

Mắt phàm chẳng ngay gian khôn tỏ

Oan tày trời thống khổ xiết bao

Ruột đau chín khúc dạ bào

Dao hàn cứa thịt má đào phôi pha

 

Ba la mật, Vệ đà thông kệ

Kinh pháp dày suôn sẻ muôn lời

Tai ương nghiệp lực rã rời

Tro than tam muội lụy đời tiêu tan

 

Đứa dâm ô gian ngoan xảo trá

Oán thù chi đội đá đeo gông

Tập điều khó nhẫn huân công

Quán âm tâm chiếu vàng rồng chí tôn.

 

*Nguyên tác lục bát “Quan Âm Thị Kính“

10.7.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Oan Khiên Bồ Tát

Cảm xúc thơ khuyết danh bài 13

 

Bậc chân tu tồn sinh chí tại

Bụi trần dơ chẳng ngại lau chùi

Tùy duyên nước rửa sạch mùi

Gương trong tâm sáng niềm vui thái hòa

 

Bấm ngón tay khai hoa mãn nguyệt

Thị Mầu sinh rõ thiệt con trai

Phú ông lấn bấn chi hoài

Mang lên Vân Tự mé ngoài tam quan

 

Cứ bỏ đó trở trăn gì nữa

Của nhà chùa lần lữa mãi sao?

Tiếc thương chi giọt máu đào

Thị còn lưỡng lự thì thào mẹ cha

 

Ngỡ ép chơi hoá ra lại thật

Biêt làm sao lật đật lên chùa

Cửa thiền la lối chanh chua

Thị càng đanh đá mõ khua lạnh lùng

 

Vứt núm ruột mít mùng tăm tối

Nhìn bé thơ lần cuối ra về

Vòng qua mấy ngọn tiểu kê

Xung quanh vắng lặng hoa lê thẹn thùng

 

Tiếng trẻ khóc não nùng khôn xiết

Tiểu Kính Tâm chẳng biết tính sao?

Băn khoăn do dự lẽ nào

Làm cha phận gái má đào khác chi

 

Đức hiếu sinh tu trì cửa Phật

Chốn thiền am ẩn dật bấy lâu

Oan khiên phải chịu cơ cầu

Cù lao chín chữ dãi dầu nắng mưa

 

Tình phiếu mẫu sớm trưa chiều tối

Đã nhủ lòng tìm lối cưu mang

Đầu ghềnh cuối bãi lang thang

Lạy van xin sữa đầu làng cuối thôn

 

Sáng hôm sau ôn tồn Sư phụ

Cháu họ Sùng sao chịu dưỡng nuôi

Tránh sao bóng gió xa xôi

Mỉa mai điều tiếng khắp nơi chê cười?

 

Bạch Sư phụ cảnh đời tệ bạc

Dù có xây chín bậc phù đồ

Sao bằng làm phúc cứu cho

Mạng người là quý còn lo ngại gì

 

Con không nuôi suy bì thiên hạ

Ràng buộc mình đội đá với đời

Hài nhi đâu phải trò chơi

Chẳng may chết uổng đất trời nào tha

 

Sư phụ dạy vị tha cứu thế

Tham sân si  chớ để nhuốm vào

Xưa nay nhân nghĩa cần lao

Đạo Bồ tát hạnh dạt dào bao la

 

Sư phụ khen thật là hiếm có

Tiểu Kính Tâm trả nợ trần ai

Trẻ thơ Thày gọi Thiện Tài

Kiếp xưa trói buộc mãi hoài truân chiên

 

*Nguyên tác lục bát “Quan Âm Thị Kính“

11.7.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Oan Khiên Bồ Tát

Cảm xúc thơ khuyết danh bài 14

 

Mẹ tò vò oan khiên con nhện

Quản chi bầy triền triện mỉa mai

Xin từng giọt sữa trần ai

Máu hòa nước lã cơm nhai nuôi người

 

Chặn họng sao lưỡi môi tỉa tót

Tiểu kia tu có trót lọt đâu

Phải chăng có đưá hoạt đầu

Mình là hai với Thị Mầu thứ ba

 

Công nuôi hộ thật là trái khoáy

Đương muộn phiền hết thảy đỡ buồn

Khi khua mõ, lúc chuông dồn

Tụng kinh lẫn tiếng ru con tối ngày

 

Thời gian trôi lá bay xào xạc

Ba mùa thu con khác cha nuôi

Hình dung dáng vóc lạ đời

Đen như củ ấu giống người đằng la

 

Nhờ cha dạy kinh ba la mật

Đọc lầu lầu trẻ thật dễ thương

Giúp cha thắp nén tâm hương

Từng pho thủ tự kim cương sẵn sàng

 

Lên sáu tuổi lại càng trí huệ

Bát nhã kinh luận để từng chương

Sáng soi ngũ uẩn giai không

Thiện Tài chiếu kiến tinh thông diệu huyền

 

Cha nuôi dạy chân truyền uy dũng

Kéo hết tơ nhện cũng về già

Mừng con giáo lý trau tria

Lớn khôn giác ngộ khắc bia tạc lòng

 

Theo đức hạnh gương trong sáng láng

Giống cha nuôi hành trạng ung dung

Thông minh đĩnh đạc vô cùng

Ba ngôi tam bảo thủy chung trọn đời

 

Một khoảng khắc chơi vơi sắc lá

Hoa ủ màu sỏi đá tả tơi

Bỗng nhiên cha gọi Tài ơi!

Chẳng còn lâu nữa phải dời xa con

 

Viết lá thư nguồn cơn kể rõ

Gửi song thân còn ở Lũng tài

Dặn dò ngăn cách trần ai

Cha về rừng tía Phật đài quang vinh

 

Chờ buông xả tự mình quán chiếu

Phật độ tăng vi diệu tâm linh

Thiện Tài như bóng với hình

Dứt lời cha mới lặng thinh tọa thiền

 

Hơi thở ngắn triền miên giấc ngủ

Trẻ thơ ngây Sư phụ báo tin

Mọi người ngơ ngác giờ thìn

Âm dương cách trở đứng nhìn lệ rơi!

 

Mấy sư đệ rụng rời kể lể

Tiểu Kính Tâm thân thể nữ nhi

Sư ông nghe nói hồ nghi

Vãi đâu khám nghiệm có gì lại thưa.

 

*Nguyên tác lục bát “Quan Âm Thị Kính“

12.7.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Oan Khiên Bồ Tát

Cảm xúc thơ khuyết danh bài 15

 

Án Kính Tâm vẫn chưa sáng tỏ

Liệm tử thi mới rõ đàn bà

Giác linh về cõi Phật đà

Thị Mầu là đứa điêu ngoa lạc loài

 

Trình Sư phụ ra ngoài thôn xóm

Đồn khắp làng từng nhóm đổ ra

Thiện nam tín nữ xót xa

Mõ truyền loan báo cả nhà phú ông

 

Khoán tài vật cửa không đã nộp

Theo lệ làng bắt gộp làm hai

Ma chay phúng điếu trong ngoài

Họ Sùng đổ vạ cho ai được nào?

 

Tiểu Thiện Tài gọi vào Sư hỏi

Cha lâm chung trăng trối điều gì?

Bạch Thày trong đó đã ghi

Bốn thư di chúc tức thì trao tay

 

Gửi cha mẹ Lũng tài quận nọ

Lá thứ hai Sư phụ chư tăng

Thị Mầu Thiện Sĩ rõ ràng

Trắng đen thấy cả mọi đàng phân minh

 

Ả dâm dục trước đình chịu tội

Khai thằng Nô gian dối bấy lâu

Aó sô khăn trắng quấn đầu

Sùng ông mốc mặt Thị Mầu mẫu thân

 

Nỗi ô nhục tâm thần bấn loạn

Cùng thằng Nô bầu bạn suối vàng

Gà đồng mèo mả bẽ bàng

Cô hồn ngạ quỷ lang thang bụi bờ

 

Thương cảm thay dật dờ đom đóm

Buổi xế chiều lọm khọm Mãng ông

Mãng bà chống gậy lưng còng

Nhận thư từ chốn cửa không gửi về

 

Thư thấm lệ dãi dầu sương gió

Nỗi oan khiên năm đó giãi bày

Cái râu mọc ngược cho hay

Tình nghi mưu sát đọa đày đến nay

 

Hai vụ án đắng cay oan nghiệt

Án giết chồng thảm thiết dâm ô

Giả trai đâu phải ni cô

Dân làng phạt vạ chày vồ tả tơi

 

Thiện Sĩ cũng tuôn rơi ngấn lệ

Bao năm trời cô lẻ một mình

Vào ra chiếc bóng in hình

Ngọn đèn bức vách điêu linh não nùng

 

Cả ba lại cùng chung cảnh ngộ

Người mất con kẻ vợ xa lìa

Gánh sầu san sẻ phân chia

Mong sao tới kịp mộ bia khóc thầm

 

Đường gập ghềnh ầm ầm thác đổ

Qua tây hồ cổ độ trăng soi

Lao xao cá nước mặn mòi

Chuông chùa thúc giục kịp thời tới nơi.

 

*Nguyên tác lục bát “Quan Âm Thị Kính“

12.7.2020 Lu Hà

 

Oan Khiên Bồ Tát

Cảm xúc thơ khuyết danh bài 16

 

Chùa Pháp Vân mọi người đông đủ

Lập đàn chay Sư phụ điếu văn

Dân làng tỉnh ngộ ăn năn

Cây rung hạt lệ trở trăn nỗi niềm

 

Con ngọc thỏ bên thềm ảm đạm

Mò kim vàng thê thảm trăng rằm

Ngư trầm nhạc lạc tin thăm

Hồ sâu tôm cá sủi tăm bóng chìm

 

Đã bấy lâu im lìm dáng nguyệt

Mảnh lưỡi liềm da diết nhớ thương

Giận mình lỗi đạo cương thường

Gánh tình đổ vỡ giữa đường trắng tay

 

Di thể lạnh đắng cay còn thấy

Ở nơi này nhờ cậy thiền môn

Đầm đìa khóe hạnh trào tuôn

Sen vàng bảng lảng nửa hồn gió mây

 

Đã một thời vui vầy hoa bướm

Yếm xuân đào thấm đượm sương mai

Nào ngờ nghiệp qủa khứ lai

Tai bay vạ gió bi ai lạnh lùng

 

Cơn sóng vỗ chập chùng biển cả

Khúc tiêu sầu vàng đá phôi pha

Sớm khuya tựa cửa mẹ cha

Vào ra ngóng đợi cảnh nhà quạnh hiu

 

Chán nhân gian buồn thiu gió thổi

Dấu niết bàn lặn lội tới đây

Thiền am bát nước vơi đầy

A di đà Phật bấy chầy chân kinh

 

Đồ cúng tế anh minh tam bảo

Huyền diệu thay thơm thảo hương lân

Nhiệm mầu kết đóa tường vân

Thích Ca linh hiển toàn thân đạo vàng

 

Lời sang sảng ngân vang kinh kệ

Tiểu Kính Tâm giáng thế quang lâm

Vinh thăng là Phật Quán Âm

Hồng hài nhi trọn tình thâm Thiện Tài

 

Gọi đồng tử bên ngài hầu cận

Thiện Sĩ thì tủi hận đứng bên

Hóa thành chim vẹt cho nên

Muôn đời học nói đài sen tọa thiền

 

Kìa hai khóm thung huyên phúc hậu

Tỏ tấm lòng phụ mẫu cù lao

Phất trần thong thả thanh tao

Một nhà siêu thoát cảnh nào vui hơn

 

Chốn bồng lai chập chờn sóng nhẹ

Sợi lông hồng cũng dễ chìm ngay

Ba nghìn thế giới nào hay

Không sinh không diệt hương say niết bàn

 

*Nguyên tác lục bát “Quan Âm Thị Kính“

13.7.2020 Lu Hà

 

 

 

 

Oan Khiên Bồ Tát

Cảm xúc thơ khuyết danh bài 17

 

Thư để lại chứa chan nhân thế

Gửi mẹ cha kể lế nguồn cơn

Ơn sơn hải, phận tủi hờn

Phù du bèo dạt dập dờn hồng nhan

 

Thân liễu bồ gian nan quan ải

Tấm lòng son gửi lại đôi hàng

Xích thằng đổi lấy kim thằng

Cắt râu nên nỗi thiếp chàng biệt ly

 

Phải chạy trốn bát y tầm đạo

Xuống tóc rồi tam bảo thuận duyên

Ngưu Lang, Chức Nữ đôi bên

Ngân hà xa cách thung huyên xa vời

 

Với hương phấn thẹn lời non nước

Gánh hiếu đành thổn thức khóc than

Dặm trường cách trở quan san

Mẹ cha già yếu dao hàn cắt da

 

Miền bát nhã la đà mây khói

Nương thuyền từ vượt khỏi sóng mê

Quang minh đuốc tuệ bốn bề

Thành sầu bến giác ngộ về chân kinh

 

Nơi Vân tự chày kình mõ gõ

Bỗng từ đâu bể khổ vây quanh

Thị Mầu mưa máu gió tanh

Giở trò ái dục hóa thành dở dang

 

Thuở làm vợ bẽ bàng thất tiết

Lúc làm trai mất nết oan tình

Học theo trời đất hiếu sinh

Nuôi người cam chịu nhục hình mỉa mai

 

Cũng bởi tại khứ lai đòi đoạn

Nên đời con lận đận khổ đau

Tưởng rằng dưa muối tương rau

Nâu sồng y bát kinh cầu thảnh thơi

 

Nào ngờ đâu tả tơi thân xác

Bị đánh đòn phờ phạc tháng ngày

Bồ hòn ngậm đắng nuốt cay

Xanh xao cành liễu lắt lay gió lùa

 

Trải mấy thâu bốn mùa hiu quạnh

Nuôi con thơ khổ hạnh xiết bao

Bàn dân thiên hạ xôn xao

Ruột đau chín khúc dạ bào xót xa

 

Tránh sao khỏi người ta đàm tiếu

Chú tiểu dâm phải chịu đọa đày

Cho nên con viết thư này

Nghiêm từ trăm lạy trả vay nợ đời!

 

Bệnh càng nặng chơi vơi đất khách

Đành ra đi dám trách chi ai

Dù cho lạc nẻo tuyền đài

Hay về Phật quốc thiên thai non bồng.

 

Xin hết truyện

*Nguyên tác lục bát “Quan Âm Thị Kính“

13.7.2020 Lu Hà

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét