Thứ Hai, 4 tháng 5, 2020

Bình Giảng Thơ Lu Hà Do Thu Hà Diễn Ngâm Phần 50


Sầu Ly Ai Oán (2)

Nghe tiếp theo video thứ 2, Sầu Ly Ai Oán được Thu Hà diễn ngâm, tôi nghe mà rưng rưng nước mắt. Tôi thương cho dân tộc Việt Nam, thương cho nỗi bất hạnh của bao kiếp phận hồng nhan tài hoa bạc mệnh cổ kim xưa nay từ công chúa Huyền Trân, nữ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ, thương cho vua Quang Trung yểu mạng và thái hậu Ngọc Hân lẻ loi giữa nơi hang hùm nọc rắn. Tôi miên man sầu tưởng về những vần thơ lục bát về những tình tiết tôi mô tả trong thơ.


Hoàn cảnh Ngọc Hân lúc đó mong manh bi đát. Tuy rằng Quang Toản con bà chính cung hoàng hậu Phạm Thị Liên đối xử với mẹ con thái hậu Ngọc Hân rất tốt. Nhưng Ngọc Hân vẫn cảm thấy đám gian thần xung quanh vua bên họ ngoại Quang Toản đang thao túng quyền lực, họ xui bẩy vua Cảnh Thịnh tiêu diệt các tướng lãnh của bác ruột mình là Tây Sơn Vương Nguyễn Nhạc, dồn Nguyễn Nhạc đến bước đường cùng phải thắt cổ tự tử. Đáng lý hai bác cháu phải đoàn kết với nhau để chống lại một đối thủ chính trị  đáng gờm là Nguyễn Ánh ở Gia Định thì Quang Toản lại tham lam quyền bính, sợ ông bác già lấn át ngôi báu của mình. Cho quân đến phá phách cả dinh thự của bác ruột mình. Thật là bất hạnh cho dân tộc Việt Nam vua Quang Trung anh minh lỗi lạc tài trí như vậy nhưng lại sinh ra một đứa con bất tài mê muội. Đúng là hổ phụ trót sinh ra cẩu tử

Ngọc Hân hoàn toàn khác hẳn với các bà hoàng hậu vương phi mà tôi đã từng biết trong lịch sử hai nước Trung - Việt  khét tiếng hung ác tàn bạo với trò buông rèm nhiếp chính như Lữ Hậu, Võ Tắc Thiên, Nguyễn Thị Anh v.v...Ngọc Hân hiền thục không muốn con trai mình là Quang Đức làm thái tử kế nghiệp vua. Trong khi đó bà rất được vua Quang Trung sủng ái, chuyện lớn chuyện nhỏ hai người đều bàn bạc với nhau. Khi vua Quang Trung mất bà quyết định đưa hai con ra khỏi phủ đệ xa hoa canh phòng nghiêm cẩn mà lui về ẩn náu tại chùa Kim Tiền - Dương Xuân ở Huế cạnh điện Đan Dương trong cảnh nghèo túng để thờ chồng và nuôi con.

Quang Toản nhỏ tuổi lại bị cậu ruột là thái sư Bùi Đắc Tuyên thao túng quyền bính. Toản nghe theo lời Tuyên xúi bậy giết hết các trung thần tướng lãnh giỏi của cha mình ngày xưa, ngay đến bác ruột của mìnhToản cũng không tha. Trong khi đó Nguyễn Ánh có mối thâm thù huyết hải với nhà Tây Sơn thì Toản lại coi thường và cuối cùng Toản bị Nguyễn Ánh bắt sống và bị tứ mã phanh thây. Vợ Toản là em gái cùng cha khác mẹ với Ngọc Hân là nàng Ngọc Bình có rất nhiều điểm tương đồng, cũng bị Ánh ép làm vợ.  Ánh bảo Bình tội đáng chết hơn cả Bùi thị Xuân nhưng Ánh đã giải phóng Bình ra khỏi Quang Toản vốn dĩ chỉ là cưỡng hôn do chủ ý của Ngọc Hân. Triều thần can ngăn nhưng Ánh cứ phong cho Ngọc Bình là đệ tam quý phi. Thật buồn sau này đám dân đen lại nhầm tưởng Ngọc Bình là Ngọc Hân. Họ làm ca dao diễu cợt. Trong khi đó Ngọc Hân đã mất vào năm 1799 trong cảnh bần hàn đói rách.
“Số đâu có số lạ lùng
Con vua lại lấy hai chồng làm vụa“

Số phận nàng Ngọc Bình cũng rất thê lương không kém gì Ngọc Hân.

Mất chồng rồi lại lấy chồng,
Mặt nào còn sống ở trong cõi đời?.

Thế nhưng Ngọc Bình vẫn phải chấp nhận mối duyên tình cưỡng ép này, theo sách sử  cho biết bà đã sinh hạ cho vua Gia Long bốn người con là 2 công chúa và hai hoàng tử. Bà với vua Gia Long về tuổi tác có khác chi cha con? Vì bà xinh đẹp mĩ miều như con gà mái tơ mắn đẻ. Bà sinh ra hoàng tử Nguyễn Phúc Cự năm canh ngọ 1810 một năm sau khi sinh ra Nguyễn Phúc Quân năm 1809 và bà qua đời năm 25 tuổi. Theo tôi vua Gia Long đã cưỡng dâm bà,  vì bà từng là vợ của kẻ thù. Gia Long coi triu đình Tây Sơn như ngụy. Đã là ngụy thì giết sạch không còn một mống, của cải của nó ta sẽ lấy hết, vợ nó ta cũng lấy, con cái chúng nó không giết được thì đày đi vùng kinh tế mơi ở những nơi rừng thiêng nước độc khỉ ho cò gáy lam sơn chướng khí cho sạch cái giống giặc cỏ tây sơn đi.

 Nên chỉ một thời gian ngắn năm trước năm sau mà công chúa Ngọc Bình đã liên tiếp sinh ra 2 đứa con theo tôi là bà bị chứng bệnh hậu sản hay căn bệnh trầm cảm do những biến cố u uất ưu phiền nên hàm lượng chất dẫn truyền thần kinh Serotonin quá thấp sau hai lần liên tiếp vượt cạn. Gia Long không hề có tình thương yêu mà chỉ coi Ngọc Bình như con Puppe tình dục mũm mĩm là một thứ công cụ để  khích thích gây khoái cảm mà thôi, để làm cái bát cho Gia Long sả hết tinh trùng dục vọng độc khí đầy thú tính ra thôi .

 Có thuyết nói, Lê Thị Ngọc Bình miễn cưỡng làm vợ Gia Long với mục đích hy sinh danh tiết để cứu người, phải lấy kẻ thù của chồng với hi vọng cứu được các cháu (con của Quang Trung) thế nhưng ý định đó không thành. Thất vọng, phẫn uất, chán nản nên làm nàng đau khổ mà sinh bệnh. Lại có thuyết khác cho rằng Ngọc Bình đã dùng độc dược để kết liễu đời mình.

Nhưng phải công nhận: Nguyễn Ánh không phải loại vừa rất can trường đảm lược tinh thông binh pháp đến vua Quang Trung cũng phải vị nể. Chỉ tiếc rằng ông háo dâm và háo sát. Ông đào mồ mả anh em Nguyễn Huệ cho lính đi tiểu vào hộp sọ, đốt thành tro trộn với thuốc súng đem bắn, đến mẹ con nàng Ngọc Hân thi hài được bí mật mang ra Bắc, ông cũng sai người đến khai quật lên. Anh em Nguyễn Nhạc Nguyễn Huệ Nguyễn Lữ ngày xưa cũng đã từng đào mả tổ tiên nhà Nguyễn Ánh mục đích để triệt long mạch, nhưng trả thù tàn bạo như Nguyễn Ánh quả là kinh khủng.

Ngọc Hân viết Ai Tư Vãn thơ song thất lục bát thay cho điếu văn đọc trước linh cữu chồng giàu trí tưởng tượng siêu hình mộng ảo nhưng cũng có lúc rất hào hùng bi tráng khi nàng mô tả về hình ảnh oai phong lẫm liệt của chồng của mình và tôi Lu Hà sau 220 năm lại nhập hồn vào tinh anh thể phách của nàng Ngọc Hân viết ra những vần lục bát để nghệ sĩ Thu Hà ngâm mà rơm rớm nước mắt. Tôi khóc thật sự không phải vì thơ tôi làm ra mà tôi khóc:

Đống Đa tướng sĩ thiên đình
Ngọc Hồi sấm sét tinh binh bất ngờ
Canh ba gà gáy xác xơ
Phòng the quá bụa giấc mơ tủi hờn”

Trận Ngọc Hồi – Đống Đa là thắng lợi của nước Đại Việt thời Tây Sơn do vua Quang Trung lãnh đạo vào đầu năm Kỷ Dậu 1789, đánh tan đội quân Mãn Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy kéo sang do sự cầu viện của vua Chiêu Thống nhà Hậu Lê. Nguyễn Huệ là một thiên tài dùng binh thần tốc vớ lố đánh bất ngờ làm quân địch dù mạnh đến đâu cũng trở tay không kịp.


 Bài hịch là "Lời hiếu dụ tướng sỹ" được vua Quang Trung đọc tại lễ lên ngôi:

Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ
Dịch nghĩa:
Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó bánh xe không quay lại
Đánh cho nó manh giáp không trở về
Đánh cho sử biết nước Nam anh hùng có chủ

Một giai thoại được truyền lại về việc Quang Trung lập kế để động viên quân sĩ trước khi ra quân đánh quân Thanh, tại lễ đăng quang ở Phú Xuân.

Sau lúc làm lễ, Quang Trung sai mang đến cái mâm, trên để các đồng tiền, có phủ vải điều, rồi tuyên bố với quân sĩ:
-"Ba quân hãy cùng ta quan sát, nếu cả hai trăm đồng tiền này đều sấp, thì đó là điềm trời báo chúng ta đại thắng. Ngược bằng, có đồng ngửa, thì đó là đại sự của chúng ta có điều trắc trở."

Nguyễn Huệ chắp tay khấn vái, đặng bưng mâm tiền, cung kính dâng lên cao, rồi hất tung xuống sân. Quân sĩ thấy các đồng tiền nhất loạt đều sấp, reo hò mừng rỡ, tin chắc trận ra bắc sẽ thắng quân Thanh.
Kỳ thực, Nguyễn Huệ đã sai đúc 200 đồng tiền có cả hai mặt đều là mặt sấp. Mẹo này giống Nguyễn Trãi cho ngươì dùng mật ong bí mật viết lên lá cây:
 “Lê Lợi vi vương-Nguyễn Trãi vi thần“
 Rồi để sâu kiến ăn đục ra hàng chữ kỳ lạ đó, dân thiểu số như tày, mường, nùng tưởng là điềm trời báo: Nước Nam có minh chúa và quân sư thần cơ diệu toán.

“Trăng lên sướt mướt đòi cơn
Bên rèm cửa sổ chập chờn dáng ai
Mặt rồng khắc khổ u hoài
Oai phong tột đỉnh tuyền đài thẳm sâu“

Ánh trăng là đỉnh cao của ái tình, cho nên những cặp vợ chồng trẻ sau khi cưới nhau thường có tuần trăng mật. Theo quan điểm khoa học và kinh nghiệm dân gian nếu nam nữ giao phối với nhau dưới ánh trăng xanh khí trời mát mẻ con cái sinh ra thường khôi ngô tuấn tú và rất thông minh. Nhưng ánh trăng của Ngọc Hân lúc này tuy không vàng vọt ốm đau trăng thổ huyết như Hàn mạc Tử. Ánh trăng của Ngọc Hân là ánh trăng của sự đau khổ nhớ nhung nuối tiếc và thèm khát.

Một người phụ nữ góa bụa nửa đêm vỗ gối nước mắt đầm đìa rồi thiếp đi trong cơn mộng mị như thấy chồng về, trong trạng thái vô thức huyền ảo ánh trăng lờ mờ sen vàng bảng lảng bên rèm cửa sổ gió thổi phập phồng, như có tiếng gọi thầm thì bên tai: Ngọc Hân nàng ơi! Người vợ yêu quý của ta ơi! Nàng có biết không dưới đó lạnh lẽo lắm, ta phải trốn diêm vương quỷ xứ lén về thăm nàng đây...

Ngọc Hân mừng rỡ nhưng vẫn trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê chỉ thấy mặt rồng tức Nguyễn Huệ xưa kia uy nghi giờ  mà sao lại nhợt nhạt khắc khổ, cái dáng oai phong khổ người vạm vỡ vai rộng bây giờ lại cúi lom khom hun hút theo con đường hầm tối om về chốn tuyền đài thăm thẳm. Nàng muốn theo chàng xuống đó nhưng bị quân canh quỷ dữ chặn lại.

Tuyền đài cũng tức là hoàng tuyền hay cửu tuyền nơi  có 9 suối dưới âm phủ. Đây cũng là câu chuyện nói về chúa nước Trinh gọi là Trịnh Trang Công, tên thật là Cơ Ngụ Sinh, có nghĩa là ngộ sinh. Trang công rất có hiếu với mẹ là bà Khương Thị. Lúc sinh ra ông bà Khương Thị đau đớn khó đẻ, sinh ngược hai chân ra trước, nên bà coi là oan gia bất hiếu. Bà sinh tâm ác cảm với ông mà chỉ hết lòng yêu thương đứa con thứ hai là Cơ Đoạn. Bà còn bày mưu cho Cơ Đoạn tạo phản cướp ngôi. Sự việc bại lộ Cơ Đoạn phải tự tử. Hai mẹ con từ mặt nhau, nhưng đại phu Dĩnh Khảo Thúc khuyên Trang Công giữ đạo hiếu với mẹ. Ông cho đào hầm đất đến chỗ có suối chảy gọi là suối vàng. Rồi sai người rước bà Vũ Khương tới gặp Trịnh Trang Công. Hai mẹ con lại đoàn tụ.

“ Thôi đành xuống tóc xin cầu
Giai không tứ đại ngọc châu vẹn tuyền
Ba sinh tìm lại cơ duyên
Nghìn năm hương lửa thuyền quyên tuyết đào“

Xuống tóc có nghĩa là đi tu. Ngọc Hân quyết định xin làm ni cô ở chùa để tránh tai mắt của quân quan của nhà Nguyễn. Ăn mặc lam lũ nhem nhuốc để che dấu sắc đẹp của mình đi. Giai không tứ đại là câu nói của con nhà Phật. Thế gian này tạo thành bởi 4 chất lớn là đất, nước, gió, lửa. Thân xác con người là tứ đại, chim chóc thú vật cỏ cây cũng thuộc về tứ đại. 4 đại này không biết từ đâu đến và đi về đâu, nó hoàn toàn là không. Nhưng tự nó xuất hiện và tự nó biến đi. Đơn giản vô thường là như vậy. Do đó biết chết không phải là hết vì cũng còn luân hồi của nghiệp lực do mình tạo ra. Bể khổ trầm luân không ai tránh khỏi khổ đau sinh lão bệnh tử.
Ba sinh là kiếp trước, kiếp này và kiếp sau theo thuyết luân hồi của nhà Phật. Nên ông Nguyễn Du mới nói:
“Ví chăng duyên nợ ba sinh.
Thì chi đem giống khuynh thành trêu ngươi“
Còn bà Hồ Xuân Hương thì kêu lên:
“Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi!
Cái nợ ba sinh đẫ trả rồi!“

Câu thơ lục bát của tôi muốn nói nàng Ngọc Hân còn nặng nợ duyên tình với Nguyễn Huệ. Nàng sẽ tìm lại ông Nguyễn Huệ hàng ngàn kiếp sau hay chính nàng sẽ tìm cái thằng Lu Hà tôi để trả nợ bài thơ tình mà tôi đã viết về nàng để nghìn năm hương lửa nồng nàn tỏ rõ cho thiên hạ biết mặt thuyền quyên tuyết trắng đào non với chàng thi sĩ ?

“ Trộm nghe Thang Võ anh hào
Công lao đế nghiệp thọ cao mệnh trời
Giúp dân cứu nước thương đời
Công trình Nghiêu Thuấn lòng người tạc ghi“

Thang Võ  là tên gọi của Thành Thang và Võ Thành Vương hay Chu Thành Vương.
Thành Thang  được hai mưu sĩ tên là Y Doãn và Trọng Hỷ giúp sức lật đổ Kiệt Vương hoang dâm độc tài bạo ngược.  Chu Vũ Vương được một ông già ngót 80 tuổi tên là Khương Tử Nha tức là ông Lã Vọng ngồi câu cá đó, có trong các bức tranh cổ ở Việt Nam hay bày bán. Ông đã giúp Chu Vũ Vương  diệt bạo chúa Trụ Vương  lập ra nhà Chu. Trong sách xuân thu có chép: Thành Thang, Đại Vũ, Chu Vũ Vương là 3 vị tam vương hiền quân minh chúa.  Các vị này công lao lớn quá nên trời để cho được sống lâu. Nghiêu Thuấn  tức là hai vị vua hiền gọi là Đế Nghiêu đạo giáo tôn ông là Thiên Quan Đại Đế.  Đế Thuấn  cũng được đạo giáo tôn vinh là Địa Quan Đại Đế. Nghiêu nhường ngôi cho Thuấn. Triều đại của các ông theo tôi coi như là nền móng cộng hòa dân chủ đầu tiên trong lịch sử loài người. Vua cũng đi cày bừa như dân, làng xóm ấm no hạnh phúc, không có chuyện trộm cắp tham nhặt của rơi.

“ Chồng ta nào có kém gì
Mà sao mệnh yểu chim di nấm mồ
Xót xa vận nước cơ đồ
Giọt châu lã chã liễu bồ thiết tha“

Sau 220 năm, Lu Hà tôi cũng phải kêu lên cùng nàng Ngọc Hân khi nghĩ về công trạng giúp đời giúp dân đánh đuổi ngoại xâm cứu nước, mở mang văn hóa khuyến khích học chữ Nôm của vua Quang Trung Nguyễn Huệ có kém gì Thành Thang, Chu Thành Vương, Nghiêu Thuấn đâu mà sao ông trời ăn ở bạc bẽo hẹp hòi như vậy? Tuổi thọ của Nguyễn Huệ chỉ có 40 thôi?

Chúng ta hãy lắng nghe Ngọc Hân kể lể tâm tư nỗi lòng cay đắng của mình bằng những vần thơ song thất lục bát:
“Nghe trước có đấng vương Thang Võ
Công nghiệp nhiều tuổi thọ thêm cao
Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước biết bao công trình

Công dường ấy mà nhân dường ấy
Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công
Rộng cho chuộc được tuổi rồng
Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi“

Ý thơ rõ ràng nàng oán trách ông trời, nàng muốn làm một cuộc buôn bán mặc cả với trời. Nằng sẵn sàng đổi mạng, sẵn sàng chết đi để cho vua Nguyễn Huệ được sống .
Để đòi lại đất đai  hai vùng Quảng Đông và Quảng Tây.

Viết đến đây tôi lại nhớ tới nàng Trần Huyền Trân cũng vâng mệnh Phụ Hoàng kết hôn với chàng Chế Mân một người hào hoa phong nhã một vị anh hùng của nước Chiêm Thành đã cùng sát cánh với Đại Việt đánh đuổi quân xâm lược Mông cổ. Mới đầu nàng cũng buồn sau sống với Ché Mân nàng lại rất yêu Chế Mân, nàng oán hận Trần Khắc Chung sao lại đến cướp nàng về, trong khi trong lòng nàng chỉ muốn lên giàn hỏa thiêu cho trọn đạo vợ chồng và khỏi mang tiếng cho nước Đại Việt tráo trở lật lọng lấy không của Chiêm Thành hai châu Ô -Rí. Bài thơ viết vào năm 2007 hồi đó tôi chưa thật hiểu rõ mối tình nồng cháy của công chúa Huyền Trân và vua Chiêm Thành là chàng Chế Mân cũng rất sâu nặng.

Huyền Trân Về Chiêm Quốc

Một bước chân đi một lỡ làng
Nỗi đau dân nước trái sầu ngang
Vua cha chót hứa người Chiêm Quốc
Thuyền lỡ duyên đò đợi kiếp sang

Vua anh cũng chẳng thuận lòng cha
Huynh muội tình thương khúc ruột rà
Lưỡng lự triều đình hai nước bí
Em đi thêm đất lợi trăm nhà

Thế kỷ qua rồi vó ngựa vang
Vương triều ải bắc máu thành giang
Anh hùng ngã xuống từng bao lớp
Soi bóng thiên thu hận lá vàng

Một bước chân đi một lỡ làng
Dưới trơì bi lụy dấu sang ngang
Ví bằng có đổi thành chim được
Đôi cánh tự do chẳng bẽ bàng

Gả bán chữ tòng bắt phải theo
Trái duyên lễ giáo trói đời sao
Hai châu Ô-Lý đè thân gái
Tủi cực buồn cho phận má đào

Xưa chốn cung đình in bóng nhau
Đường kim muĩ chỉ lựa tay mau
Cung tần mỹ nữ nhìn xa nhé
Ai biết tình ai đã bấy lâu

Đường trường thiên lý bóng chiều chen
Thiếu nữ qua đi khắp mọi miền
Đám rước cô dâu về vạn tượng
Thương con chim hót ngẩn ngơ phiền

Thăm thẳm rừng sâu miền đất lạ
Bồ hòn ngậm đắng hỡi Khắc Chung
Giang sơn gấm vóc vươn bờ cõi
Vì nước em ơi lệ suối cùng

Một bưóc chân đi một lỡ làng
Đắng cay tủi hận dấu xe tang
Thân mai xe nghiến màu hoa uá
Cành trúc la đà gió bẻ ngang

Đổi chác duyên tình thiên hạ biết
Người thua kẻ thắng bụi tàn bay
Hám danh nữ sắc dâng tay cống
Một nửa giang sơn thiệt thế này

Trót đã sinh ra thân ngọc ngà
Mỵ Châu Trọng Thủy mối tình xưa
Huyền Trân công chúa về Chiêm Quốc
Trái cảnh thương đau mối cảm sầu?

Muà thu 2007 Lu Hà 


Huyền Trân Lại Về
cảm hứng từ thơ Bùi Thảo: Tình Sử Huyền Trân

Ai thương công chúa Huyền Trân
Duyên tình trắc tở tần ngần ngẩn ngơ
Trăng sao tủi hận vườn đào ?
Khắc Chung dũng tướng nghẹn ngào chiều thu...

Tại gia xuất giá tòng phu
Thuyền hoa đợi bến sương mù xôn xao
Ba quân chỉ ngọn cờ đào
Trống giong đám rước dạt dào quan san

Hai châu Ô- Lý thuộc Trần
Anh Tông lưỡng lự triều thần chủ trương
Cánh buồm thuận gió băng băng
Tình cha nghĩa mẹ ngổn ngang cõi lòng

Giang sơn bờ cõi mênh mông
Gánh buồn em chiụ má hồng tuổi xuân
Ngậm ngùi hổ tướng tiễn chân
Ruột đau như cắt lệ chan đôi hàng?

Ầm ầm ngưạ hí quân vang
Hồng bào lộng lẫy kiệu vàng thong dong
Linh đình hoàng hậu sắc phong
Trùng dương xa cách biển đông ngỡ ngàng

Tròn năm bụng chửa cái mang
Đa da hoàng tử ngai vàng bơ vơ
Chế Mân hồn phách dật dờ
Nửa đường đứt gánh xác xơ cung đàn

Giàn thiêu lửa đỏ xương tàn
Vua anh hoảng sợ tướng quân gọi bàn
Tình xưa mộng cũ chứa chan
Biển khơi đưa tiễn non ngàn Chế Mân

Mẹo hay thẳng cánh lấn tràn
Phăng phăng cưỡi sóng trăng ngàn tùng quân…
Dùng dằng trướng phủ màn ngăn
Thẹn thùng má phấn nồng nàn gió mây...!

* Bài thơ này tôi trót làm từ năm 2010. Mấy năm sau tra cứu lại lịch sử thì không phải như vậy. Huyền Trân rất chung thủy với chồng và nàng rất bất mãn oán hận vua  Trần Anh Tông cũng là anh trai mình sai Trần Khắc Chung đón nàng về và nàng quyết định xuống tóc đi tu cấp tốc. Huyền Trân thời gian làm ni cô trong chùa hoàn toàn không biết gì về chuyện thiên hạ đồn thổi mình với ông gìa Trần Khắc Chung. Nàng sớm tối chỉ chăm hái thuốc chữa bệnh và cầu kinh gõ mõ. Ruộng đất thái hậu tức là dì ruột ban cho nàng không chịu nhận mà chỉ cặm cụi trồng rau một mảnh vườn nhỏ sau chùa.
7.7.2010 Lu Hà

Công lao hai nàng công chúa Trần Huyền Trân và Lê Ngọc Hân hai triều vua liên tiếp Trần- Lê rất lớn cho nước Việt Nam ta. Bao dung đức hạnh tình người thủy chung. Nhất là Trần Huyền Trân đã có công mở mang bờ cõi mà đám dân đen nhà quê thất học hại đức còn làm ca dao diễu cợt. Trong dân gian, có lẽ vì thời đó người Việt coi người Chăm là dân tộc thấp kém nên đã có câu ca dao:

Tiếc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo

Khi Huyền Trân trở về Thăng Long, công chúa xuất gia ở núi Trâu Sơn  thuộc  tỉnh Bắc Ninh thọ Bồ tát giới và được ban pháp danh Hương Tràng
Các triều đại sau đều sắc phong công chúa Huyền Trân là thần hộ quốc. Nhà Nguyễn ban chiếu ghi nhận công lao của công chúa Huyền Trân trong việc giữ nước giúp dân, có nhiều linh ứng, nâng bậc tăng là "Trai Tĩnh Trung Đẳng Thần"

“Ngậm ngùi di chiếu lan xa
Đất trời ảm đạm nhân hà thảm thê
Chập chờn nửa tỉnh nửa mê
Mối sầu ai gỡ ê chề tiệc hoa“

Con người ta trước khi chết viết di chúc để lại cho con cháu. Là bức thư cuối cùng thể hiện ý chí, nguyện vọng, lời dặn dò. Đó là những lời gửi gắm thiêng liêng mà thế hệ con cháu đời sau phải cố gắng thực hiện. Di chúc cũng không quên vấn đề phân chia tài cho con cái, tránh tranh chấp, mâu thuẫn sau này. Đó là di chúc của những thường dân. Còn di chiếu của bậc đế vương như Nguyễn Huệ là thông cáo toàn dân phải có bổn phận con dân với với triều đình bảo vệ biên cương lãnh thổ. Ta hãy đọc lại di chiếu của Lý Nhân Tông qua bản dịch từ chữ  Hán:
Trẫm nghe: các giống sinh vật không giống nào không chết. Chết là số lớn của trời đất, là lẽ đương nhiên của muôn loài. Thế mà người đời không ai không ham sống, ghét chết. Có người chôn cất linh đình đến huỷ hoại cả cơ nghiệp; có người coi trọng việc tang chế đến hao tổn cả tính mệnh, trẫm rất không ưa. Trẫm đã ít đức, không làm gì cho trăm họ được yên đến khi chết đi lại bắt dân chúng mặc xô gai, sớm tối khóc lóc, giảm ăn uống, bỏ cúng tế, để làm nặng thêm lỗi lầm của trẫm thì thiên hạ sẽ bảo trẫm là người như thế nào?

Trẫm vẫn sót vì tuổi nhỏ phải đảm đương ngôi báu lớn, ở trên các vương hầu, lúc nào cũng nghiêm kính sợ hãi, đến nay đã năm mươi sáu năm. Nhờ anh linh của tổ tông và hoàng thiên tin giúp nên bốn bể yên lành, biên thuỳ ít loạn, đến khi chết đi được dự đứng sau tiên đế là may lắm rồi, việc gì còn phải khóc thương!
Trẫm từ khi đi xem dân gặt hái đến nay, trong mình bỗng thấy không khỏe, bây giờ bệnh đã trầm trọng, sợ không kịp căn dặn đầy đủ, nên hãy thận trọng mà nói việc kế tự thôi! Thái tử Dương Hoán tuổi đã tròn mười hai, có độ lượng, thông minh, thành thực trung hậu, ôn hoà nghiêm kính, có thể theo phép cũ của trẫm, lên ngôi hoàng đế.

Này đứa trẻ thơ, con hãy vâng nhận mệnh ta, nối dõi thể thống, giữ gìn cơ nghiệp, làm rộng lớn thêm công đức của tiền nhân. Trẫm mong thần dân hết lòng phụ tá.

Hỡi ngươi Bá Ngọc, ngươi thực có phong độ người quân tử. Hãy sửa sang giáo mác để dự phòng những việc bất trắc, chớ làm sai mệnh trẫm, trẫm dù nhắm mắt cũng không ân hận gì.

Việc tang thì sau ba ngày nên bỏ áo trở, thôi khóc than. Chôn cất thì nên theo cách kiệm ước của Hán Văn Đế, không cần xây lăng tẩm riêng, hãy để trẫm được hầu bên cạnh tiên đế.

Than ôi! Mặt trời đã xế, tấc bóng khôn dừng; trăng trối mấy lời, nghìn năm vĩnh quyết!
Các ngươi nên thực lòng kính nghe lời trẫm, tỏ bày với các bậc vương công và bá cáo cho mọi người cùng biết.“


Di chiếu vua ban thông cáo cho triều thần và toàn dân là như thế đó. Lý Nhân Tông được học hành nhiều ngài giỏi văn chương chữ nghĩa. Còn Nguyễn Huệ giỏi về võ nghệ đánh trận cầm quân và hoạch định các chính sách an dân phát triển đất nước. Người Hoa và Tây Phương vẫn thường nói Nguyễn Huệ rất cởi mở, con mắt ông thông thoáng nhìn về sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Sống dưới triều Tây Sơn người ngoại quốc rất dễ thở không bị o ép như các triều vua nhà Nguyễn: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức v.v...Bóc lột dân chúng đến xương tủy, thuế khóa nặng nề. Nạn bài trừ tôn giáo nhất là đạo Ki-Tô giáo rất kinh khủng, chém đầu giáo sĩ giáo dân như phạt chuối.

Còn Nguyễn Huệ thì không bao giờ có chuyện đó sảy ra. Nguyễn Huệ chủ trương cấp đất cho dân nghèo, các xưởng thủ công phát triển, buôn bán giao thương với người Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha. Bỏ lối thi cử từ chương trích cú, học hàm sáo rỗng kiến thức nông cạn. Khuyến khích học chữ Nôm của người Việt, phát âm đọc ra hoàn toàn tiếng Việt khắp cả 3 miền Trung, Nam, Bắc.

Nguyễn Huệ chiêu hiền đãi sĩ các bậc văn nhân trí giả như: Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ich, Nguyễn  Thiêp  vân vân và vân vân… Không như triều Gia Long để dân đói quá sinh ra nội loạn. Một văn thi sĩ như Cao Bá Quát cũng không chịu nổi phải nổi lên khởi nghĩa chống lại triều đình hủ bại. Thật đáng thương thay cho dân tộc Việt Nam nếu trời để cho vua Quang Trung thọ thêm 20 hay 30 năm nữa chắc chắn người Pháp sẽ không mang quân xâm lược Việt Nam và nước ta có thể tiến bộ văn minh hơn cả Nhật Bản.

Nguyễn Huệ ra đi cả thành Phú Xuân bầu trời trở nên u ám  mưa rền gió khóc , nhân gian thật là thê thảm não nề. Nàng Ngọc Hân vật vã nguồn cơn, nhìn quanh tả hữu có mấy ai, chỉ là hai đứa con thơ dại còn đang lẫm chẫm biết đi.

“Chữ tòng khóe hạnh nhạt nhòa
Đền ơn mưa móc thái hòa dân an
Thân còn thể phách mê man
Lần theo bồng đảo suối ngàn hồn mây“

Chữ tòng là theo đạo nho gia giáo huấn : Tại gia tòng phụ, ký gia tòng phu, phu tử tòng tử. Ngọc Hân được nuôi dạy theo kiểu mẫu tứ đức của người phụ nữ công dung ngôn hạnh. Con gái ở nhà tuân thủ nghe lời cha dạy, khi đã lấy chồng là nghe theo chồng, chồng chết thì nghe theo lời con trưởng. Nhưng Nguyền Huệ không phải là người cố chấp độc tài gia trưởng, ông không lắm vợ hoang dâm vô độ như Gia Long. Nguyễn Huệ là người sống có tình yêu nam nữ. Quan hệ vợ chồng Huệ- Hân là bình đẳng. Nên khi ông chết đi làm cho Ngọc Hân linh hồn thể phách mê man. Nàng mơ tháy mình như lạc vào cõi tiên chốn bồng đảo Thần Châu Bột Hải như Lý Long Cơ gặp nàng Dương Quý Phi đã đắc đạo trở thành Thái Chân.

“ Bần thần giây phút ngất ngây
Thiếp chàng đàm thoại vui vầy canh thâu
Bình minh chim hót trên cành
Mỉa mai oanh yến kinh thành lìa xa

Âm dương đôi ngả ta bà
Hoàng hôn đom đóm bóng ma vật vờ
Thương hai trẻ nhỏ ngây thơ
Mất cha côi cút bơ vơ gọi hoài

Tưởng rằng lạc chốn thiên thai
Tiếng gà xao xác đêm dài chiêm bao
Vật mình ôm gối khát khao
Ngọc Kinh xa lắc ngày nào tới nơi?

Đoạn thơ trên tôi đã nhập hồn vào nàng Ngọc Hân trên đường đi tìm chồng qua các nẻo thiên thai bồng đảo, nhưng ngọc kinh thì còn xa lắc. Ngọc Kinh là gì? Chính là Bạch Ngọc Kinh là thiên quốc hay cõi niết bàn của nhà Phật. Ngọc Hân là một cư sĩ một phật tử thuần hành.
Ngọc Hân viết đoạn chiêm bao này rất dài theo thể song thất lục bát, nhưng tôi rút ngắn lại theo thể lục bát.

“ Cúng sao giải hạn cầu trời
Khối tình chôn chặt cạn lời nước non
Tình xưa gang tấc đâu còn
Trước sân bóng nguyệt lầu son dãi dề“

Theo Phật  giáo tất cả 9 sao, nên cứ 9 năm lại luân phiên trở lại ứng với người nam, nữ đó là: sao La Hầu, Kế Đô, Thái Dương, Thái Âm, Mộc Đức, Vân Hớn, Thổ Tú, Thái Bạch, Thủy Diệu.
 Dân gian cho rằng nếu nam gặp phải sao chiếu mạng là La Hầu, nữ là sao Kế Đô thì năm đó là năm xấu, có thể ảnh hưởng đến tính mạng. Riêng với sao Thái Bạch thì hao tài tốn của, tiền bạc làm ra không giữ được, có tiểu nhân quấy phá. Tôi không chắc chắn Ngọc Hân sự thực có cúng sao gỉai hạn như trong thơ tôi viết không? Theo tôi Phật Giáo nguyên thủy khi Đức Phật Thích Ca tại thể tôi chưa hề nghe nói đến cúng sao gỉai hạn? Nhưng cũng có thể lắm nếu nàng viết ra:

“ Từ nắng hạ mưa thu trái tiết
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên
Xiết bao kinh sợ lo phiền
Miếu thần đã đảo thuốc tiên lại cầu

Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước
Phương pháp nào đổi được cùng chăng
Ngán thay máy tạo bất bằng
Bóng mây thoắt đã ngắt chừng xe loan“

Tình xưa gang tấc là giấc mơ đoàn tụ ân ái bi hoan vừa mới đây thôi mà trong khoảng khắc đã mất tiêu rồi. Trước sân chỉ thấy bóng trăng trước cửa lầu son lã chã sương rơi.

Cuối cùng xin đa tạ Thu Hà đã ngâm để cho tác giả bài thơ “Sầu Ly Ai Oán“ có thi hứng viết bài luận thơ giải nghĩa dài.

1.10.2019 Lu Hà




















Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét