Thứ Hai, 4 tháng 5, 2020

Lu Hà Và Nguyễn Đình Chiểu Chùm Số 2


Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 11

Khí thứ hai dật dờ bên hữu
Ngôi thiên tư thành tựu thứ ba
Trời kia bên tả tư ra
Đất thì bên hữu rõ là khí năm


Tư tuyền chung lăm lăm khí sáu
Hơi bốn mùa nương náu đến nay
Thung thăng khoảng sáu mươi ngày
Tám mươi bảy khắc nữa rày hữu cơ

Ngọn lúa đòng phất phơ thấp thoáng
Yếu quyết xưa ló dạng đầu bờ
Niềm vui thao thức bao giờ
Hai ngôi thoái lại đợi chờ mỗi niên

Cứ xuôi ngược đầu tiên chẳng trách
Tý thiên tư bức bách về đâu
Hai heo ba chuột bốn trâu
Năm hùm sáu thỏ trọn xâu dẫn truyền

Mão tư thiên xoán liền ngôi sửu
Dấy khí sơ hùm thỏ đến rồng
Rằng hai ba bốn đã thông
Năm trăn sáu ngựa trọn công tư truyền

Hai năm ấy lệ biên lâu nữa
Này những năm thấp thổ tư thiên
Thấy ngay hàn thủy đến phiên
Như năm tướng hỏa mộc nhiên tạo thành

Bởi chính hóa giao tranh đối lại
Chẳng đồng nhau trở ngại gốc trồng
Ngựa dê gà cọp heo rồng
Chuột trâu khỉ thỏ rắn muông đua giành

Theo gốc số bẩm sanh tạo hóa
Đối nghịch nhau thời họa thực hư
Thiếu thừa theo luật bù trừ
Chỗ tiêu nơi bản đều từ ấy ra

Thì hãy dở sách tra sẽ thấy
Càng thấm nhuần lời dạy thực hay
Cổ kim năm khí vận may
Máy trời sáu khi xưa nay tỏ tường

E khách chủ hai đường lẫn lộn
Khó toan bề bận rộn ngó coi
Đạo Dẫn tạo vật sáng soi
Khí theo khí xét rạch ròi sử biên

Như giáp tý chi niên giả dụ
Vận khí chia quyền đủ một năm
Giáp tìm thổ vận duyên cầm
Tý đưa quân hỏa âm thầm khí đi

Khách gia cũng chỉ vì trên chủ
Chủ chịu lòn khí tụ ngưng tà
Đất trời chẳng chịu dung hòa
Trái ngang hơn thiệt mới ra bất tề

Mùa xuân ấm chẳng về xoa dịu
Gió heo may bấu víu lạnh lùng
Mùa hè hơi nóng tận cùng
Khí âm ẩn núp hãy hùng khí dương

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
19.3.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 12

Mùa thu đến khí dương chẳng trọn
Mưa dầm dề đội nón trên đường
Hơi sương lạnh lẽo chán chường
Tiết đông heo hút thê lương bức rèm

Làn gió thổi lem nhem tan giá
Keo dán hình đất đá sượng câm
Ráo khô bực bội nóng hầm
Bùn lầy nhão nhoẹt cát lầm nứt đê

Câu khí hậu bất tề nên nhớ
Bờ sông quê sụt lở theo nhau
Cỏ cây tàn tạ khổ đau
Mong sao tương đắc trước sau hóa lành

Chỉ e ngại tranh giành khách khí
Không thuận hòa vị trí soán ngôi
Ngũ hành điên đảo than ôi!
Ghế cha phế truất con ngồi lên trên

Sinh bệnh tật cố nhiên nóng giận
Tiều cho rằng khí vận thế này
Mấy năm thuận nghịch thưa thày
Dẫn đưa y học xưa nay tận tường

Khắc tư thiên lẽ thường năm vận
Bởi tư thiên sinh vận thuận tâm
Năm nào biến chứng nghịch tầm
Vận đồng với khí là năm thiên phù

Sáu mươi  giáp một chu kỳ đến
Mười hai năm xuất hiện một lần
Kể ra Mậu tý, Mậu dần
Mậu thân, Mậu ngọ, Bính Thần, Tuất chi

Năm Kỷ sửu, Kỷ vi tính tới
Mão Dậu hai Ất Hợi Tý Đinh
Cho hay vận khí đồng tình
Mười hai năm ấy chúng sinh thiên phù

Vận khí đến vân du mấy lối
Thấp thỏm coi tuế hội tám chi
Đếm đầu Kỷ sửu, Kỷ vì
Giáp thìn, Giáp tuất, thổ vi thổ làm

Đinh mão mộc nhăm nhăm Ất dậu
Kim tiếp theo Mậu ngọ lửa dầu
Coi chừng Bính tý mưa ngâu
Thiên phù tuế hội hợp nhau nhất thì

Thái ất kia bốn chi  hội đủ
Từ Kỷ sửu chiêu dụ Kỷ vi
Theo nhau Ất dậu hơi đi
Một bờ Mậu ngọ thầm thì gió may

Coi năm tháng giờ ngày tính toán
Cờ tư thiên mà đoán cơ duyên
Gỉa như Mậu ngọ thường niên
Vận đồng với khí từng thiên rõ rành

Gặp năm ấy khó lành bệnh tật
Sách nội Kinh coi thật bao la
Máy trời trắc trở sơn hà
Mười hai năm lại sinh ra bất hòa.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
20.3.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 13

Sự trái ngược nhạt nhòa hơi khí
Mười hai năm định vị thiên hình
Nguy nan tạo vật điêu linh
Đất trời giành giật chúng sinh thảm sầu

Khi tiểu nghịch biết đâu sinh vận
Thuận hóa thành phấn chấn vui thay
Nhiệm màu nào có ai hay
Can chi nhộn nhịp cho ngay đức phù

Có hai ngôi vân du tuế hội
Vận suy ty rẽ lối xét bàn
Nội kinh hai chữ khuyên can
Hại cang thừa chế cản ngăn rõ ràng

Hữu dư bất túc càng cố gắng
Xuất nhập cho thăng giáng hẳn hoi
Phân minh mọi sự rạch ròi
Mỗi năm đồ vẽ cần coi tận tường

Soi xét kỹ bất thường tà chính
Bậc lương y suy tính trước sau
Hai luồng khí vẫn đua nhau
Thành tâm hóa dục khổ đau tiêu dần

Bầy dân đen xa gần trông ngóng
Y đức cao trọng vọng tiếng thày
Kê đơn bắt mạch chuyên tay
Bệnh tình thuyên giảm thuốc hay mau lành

Lương y giỏi xứng danh từ mẫu
Từ cổ kim khắc dấu ghi tên
Hoa Đà Biển Thước hoàng thiên
Lãn ông Hải Thượng thần tiên giúp đời

Chỉ e rằng các ngươi lười biếng
Đạo chẳng chuyên để tiếng cho ta
Thị phi miệng lưỡi phun ra
Học hành trí trá gần xa tin đồn

Ngư Tiều xin Sư tôn chỉ bảo
Kinh nghĩa trong y đạo kín xa
Nghe câu cang hại chưa ra
Dẫn trong kinh sách bao la vô cùng

Rừng chữ nghĩa mịt mùng vô tận
Muốn tinh thông phải dấn thân đi
Đan Kỳ cửa đạo tinh vi
Uyên thâm y thuật nhất nhì chẳng ngoa

Rừng bản thảo cỏ hoa kỳ lạ
Suối nước trong sỏi đá bất thường
Đủ mười hai bộ đan phương
Biết bao mùi vị mở đường từ bi

Thảo mộc cũng tương tri lân lý
Rất nhiều loài chọn kỹ tìm lâu
Một bộ kim thạch ở đầu
Trăm ba mươi tám đúng câu đá vàng

Bộ thảo thượng rõ ràng quý hiếm
Chín mươi lăm tìm kiếm hột hoa
Thảo trung một bộ nối ra
Chín mươi bảy giống gốc chà lá cây.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
21.3.2020 Lu Hà




Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 14

Nhân thuốc ấy bấy chầy một bộ
Có hai mươi vị đủ chi dùng
Ở trong thú vật bổ sung
Chín mươi mốt giống mật cùng da xương

Phải kể đến gan lòng tim phổi
Nào ba mươi bốn cội cánh lông
Bộ trùng ngư thuốc bềnh bồng
Chín mươi chín loại non sông tuyệt vời

Thuốc thường kiếm là nơi cầm điểu
Mễ cốc kia công hiệu cứu đời
Ba mươi tám giống là nơi
Gieo trồng quả phẩm muôn người trọng coi

Bốn mươi giống thảnh thơi bách thảo
Sáu mươi hai hương hảo khỏi lo
Cộng mười hai bộ trời cho
Một ngàn bốn vị trong lò hóa công

Xưa có họ Thần Nông cao nhất
Đã thay trời trị vật yêu dân
Trải qua độc vị thế gian
Một ngày hơn bảy mươi lần trúng thương

Biết bao vật âm dương nếm thử
Chẳng đắn đo do dự cứu người
Dò tìm cây cỏ khắp nơi
Soạn ra sáu tính khác hơi năm mùi

Đã thành hình nằm vùi dưới đất
Đủ đắng cay ngọt lạt mặn chua
Sát sao cách thức theo mùa
Xăm soi ngũ vị kết tua luận bàn

Nhóm vị cay dễ tan trong nước
Chua hay thâu mặn được nhuễn liền
Đắng thường vội vã nóng lên
Ngọt càng chậm lại nhạt nên tận tường

Cay ngọt lạt thuộc dương phải biết
Mặn đắng chua nhất thiết là âm
Có khi dương ở trong âm
Âm trong dương đó dễ nhầm lắm thay

Máy mầu nhiệm cầm tay dày mỏng
Hơi đục trong thất vọng chẳng đồng
Giữ cho sáu tính tương thông
Gọi là thăng giáng ôn lương đến cùng

Đừng lạc lối mê cung tả thực
Bổ hay hư tỉnh thức trên giường
Cho hay tính thuốc nhiều đường
Xưa nay năm vị vẫn thường chia ra

Ngăn tà dâm xâu xa sáu cửa
Sáu đạo binh ngang ngửa ầm ầm
Có mùi cay mát giữ cầm
Mỏi  mòn hơi gió âm thầm nửa phong

Mùi mặn lạnh đề phòng cửa nhiệt
Lửa hừng lên phải biết hậu môn
Đất nơi cửa thấp ướt dồn
Ngửi mùi cay nóng bồn chồn giác quan.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
22.3.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 15

Nếu cảm thấy khô khan cửa táo
Đường hàn môn lạo xạo băng sương
Ưá trào vị đắng táo hương
Thoảng bay độc khí thất thường ngoại khoa

Mùi thuốc ghẻ mấy toa chăng chớ
Năm vị này úy ố trái nhau
Có mười tám vị trước sau
Còn mười chín vị sắc màu nhuộm pha

Sách sử ghi lời ca ố úy
Mười tám bài hệ lụy phản nhau
Nào là bán hạ qua lâu
Ai hay  bối mẫu chân cầu tử sinh

Này bạch cập rập rình bạch liễm
Cả hai đều xâm chiếm ô đầu
Nguyên hoa hải tảo từ đâu
Ngán sao đại kích từng xâu đọa đày

Vị cam thảo càng day dứt thuốc
Các lọai sâm bạch thược trái ngang
  lô quả thật phũ phàng
Lương tâm thày thuốc bẽ bàng ngàn thu

Hồn ma khóc âm u gió thổi
Lư hoàng kia nóng hổi lửa phun
Phác tiêu cửa ải mây đùn
Thủy ngân chớ để hạp hùn tỳ sương

Mật đà tăng bất lương lang độc
Ba đậu kia thảm khốc xiết bao
Khiên ngưu chăng hợp kết giao
Đinh hương chớ để lẫn vào uất kim

Kinh tam lang nổi chìm khó hợp
Với nha tiêu từng hớp thuốc thang
Nực cười tê giác lăng xăng
Xuyên ô trộn lẫn nhì nhằng thảo ô

Ngũ linh chi từng tô đáng sợ
Với nhân sâm họa đó ích gì
Điều hòa quan quế nhâm nhi
Rất hay khí lạnh thầm thì yến anh

Gặp thạch chi hóa thành công cốc
Phải dày công bốc thuốc chuyên tay
Học hành chăm chỉ tháng ngày
Tinh thông thuận nghịch càng hay mọi đàng

Ngư cho rằng từng thang thuốc quý
Phải đúng liều chẳng lụy đến thày
Vài toa bệnh đã dừng ngay
Dẫn cười đạo hạnh xưa nay tỏ tường

Câu đối chứng lập phương cần nhớ
Quân thần kia tá sứ đo lường
Vua tôi hòa hợp một đường
Đừng gây tạo phản bất lương hại người

Nay ta mở các ngươi mấy cửa
Sẵn bảy phương đại tiểu ngẫu cơ
Phức cùng hoãn cấp sờ sờ
Khá trông mười tễ càng dư tuần hoàn

Tễ là bổ chu toàn thành thạo
Hoạt trọng khinh sáp táo thấp thôi
Bảy phương mười tễ biết rồi
Tán thang minh bạch trau dồi kỷ cương.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
23.3.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 16

Phải thấu hiểu tận tường gốc rễ
Các mẫu hình vị tễ từ đâu
Cân đo bào chế sắc mầu
Chớ nên nhầm lẫn dao cầu khéo tay

Dùng muối mặn gừng cay mật ngọt
Đủ dấm chua rượu rót chế liền
Nấu hầm than nướng lửa chiên
Ngấm vào kinh lạc đáng tiền chi ra

Mật ong thấm ruột rà phế vị
Muối thì vào thận trị dấm can
Nước gừng ngấm tới tỳ quan
Rượu hoà nước tiểu ngập tràn tâm kinh

Muốn công hiệu phân minh ngũ vị
Thuốc đã dùng thần trí phải tinh
Đun sôi nấu chín do mình
Giữ gìn thể trạng bệnh tình chóng quên

Ăn uống sạch cũng nên nhất thiết
Chất mặn nhiều khí huyết sẽ tăng
Cay thì hơi xịt lăng xăng
Hại xương chát đắng mọi đằng kiêng khem

Kìa dưa chua thòm thèm lưỡi miệng
Ngọt coi chừng từng miếng thịt thăn
Mọi điều cặn kẽ khuyên răn
Cổ kim rành rẽ can ngăn đã nhiều

Lắm của ngọt bấy nhiêu bệnh tật
Thuốc uống vào thành thật ăn dè
Kiểm tra nhiều món khắt khe
Tham ăn tục uống chỉ e hại mình

Nếu trong thuốc truật linh giả dụ
Tỏi dấm mùi dễ sợ không ưa
Uống trà  phải tránh quả dưa
Hoàng liên phảng phất quyết chừa bò heo

Cát cánh ấy chẳng theo hành sống
Địa hoàng xa mấy vống cải kia
Thịt trâu, Ngưu tất chia lìa
Xương hầm măng củ bên rìa chó dê

Thói quen hay bộn bề khắc thuốc
 thịt cá dầu mỡ buộc bỏ ngay
Trái cây rau sống ai hay
Kiêng khem thì khá tháng ngày bền lâu

Ta xin nói một câu huân tập
Bệnh tất tòng khẩu nhập giữ mình
Bốc từng thang thuốc cho tinh
Thuận theo thủy hỏa sinh linh tận tường

Đẩy dương số tiên phương mới thật
Tâm pháp thành thực chất xưa nay
Cao minh y thuật chuyên tay
Tiện bề vấn đáp sách hay để đời

Thày đã dạy bao lời ưu ái
Bậc cao nhân chẳng trái lương tâm
Mong trò y thuật tới tầm
Cứu nhân độ thế tình thâm giống nòi.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
24.3.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 17

Nay tổng quát rạch ròi đơn thuốc
Các trò nên học thuộc ghi lòng
Baỷ phương mười tễ cân đong
Thành thang hoàn tán bột trong đan ngoài

Phòng thuốc giả đúng sai tỉ mỉ
Bào chế quen mùi vị phân minh
Chớ nên khéo léo cậy mình
Chín thăng sống giáng thuận tình kiêng khem

Ngân hoa dễ nhá nhem lợi thủy
Dấm lại càng liên lụy khó thông
Đậu xanh nguyên vỏ không công
Khó bề giải độc ói nồng xình hơi

Thảo quả chữa cho người đầy bụng
Để vỏ thành rẻ rúng ngực đau
Viễn chi hắc sửu gặp nhau
Độc càng phát tác trước sau tỏ tường

Bồ hoàng sống để thông khí huyết
Nấu chín ăn thì tuyệt vô cùng
Địa du cầm huyết diệt trùng
Trần bì chữa khí màng cung trắng cường

Chống phong ngứa cứu dương phụ tử
Chữa phong tê phải có thảo ô
Ngất ngư mầm bệnh cờ hồ
Mỗi khi dùng sống dật dờ hồn mây

Nhân ngôn đốt như thày chỉ dẫn
Đá phải nung mới tán dấm ngâm
Xuyên khung loại bỏ âm thầm
Chất dầu nguy hiểm khí âm bềnh bồng

Tiều xuân hạ thu đông tác quái
Cả bốn mùa thuốc sái thất thường
Trời già đảo lộn âm dương
Xuân hòa hạ nóng thu hương đông tàn

Dẫn căn dặn dân gian trị bịnh
Tùy theo mùa suy tính đắn đo
Mùa nào thuốc ấy thăm dò
Tinh thông y thuật khéo lo chu toàn

Vào tiết xuân nồng nàn không khí
Thuốc quen dùng thấm vị thanh lương
Mùa hè nóng nực tăng dương
Từng thang hạ nhiệt thông thường hàn sa

Đến mùa thu gần xa man mát
Gió heo may dào dạt tình ca
Dập dìu sóng vỗ giang hà
Trai thanh gái lịch mặn mà yêu nhau

Hội hoa bướm khoe màu ân ái
Sợ thời gian quan tái sơn hà
Thu đông vội vã mọi nhà
Đất trời hy vọng thái hòa an khang

Bệnh thời khí dễ dàng bột phát
Cảm cúm hay sát phạt đủ đường
Đến coi bắt mạch tận giường
Thuận theo bệnh lý đúng phương thuốc dùng

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
26.3.2020 Lu Hà




Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 18

Lắm trường phái tựu trung học tập
Dám so bì cao thấp Đan Kỳ
Lưu truyền đạo hạnh lương y
Non xanh nước biếc lâm ly nẻo nào

Danh tiếng thơm xôn xao bốn bể
Đã bao đời kính nể hóa công
Ngày xưa có họ Thần Nông
Viêm Hoàng nếm trải núi sông tôn thờ

Khắp muôn nơi trông chờ dược thảo
Kỳ Bá quen giao hảo cứu đời
Nội kinh nổi tiếng một thời
Đất trời cảm tạ bao lời ngợi khen

Pho Tố Vấn tương truyền y đạo
Bệnh tật ghi chu đáo đến nay
Hai mươi bốn quyển sách dày
Phân ra tám chục thiên bày rạng danh

Từ đại luận thực hành màu nhiệm
Chắng bao giờ dấu diếm mạch kinh
Vẽ đường chỉ dẫn tượng hình
Đủ năm vận khí tận tình theo năm

Phép châm cứu cần chăm trị liệu
Trong thời thang dịch cứu mạng dân
Từ Hiên, Kỳ thị bao lần
Trải qua thế kỷ bậc thần y ra

Như Biển Thước nhà ta phát triển
Có tám mươi mốt quyển Nạn kinh
Có ông Hoàng Phủ tài tình
Soạn kinh giáp ất thanh minh trăng rằm

Trương Trọng Cảnh chẳng ham quyền quý
Hãy coi pho kim quỹ ngọc hàm
Nào ai còn nổi máu tham
Trong ngoài hư thực phép làm bao la

Từ Lưu Tử nối ra vô tận
Tới Hà Gian tinh tấn hai pho
Đông Viên họ Lý trời cho
Mười pho bạt tụy đo dò thâm sâu

Miền Đan Khê thày Chu để lại
Sách thuốc kia mấy đại pho kinh
Đều từ nội lực trong mình
Diễn ra hóa giải tướng tinh cứu người

Y thư kể các nơi chẳng hết
Đàn trâu kêu khẩn thiết cột nào?
Sách nhiều vô kể xiết bao
Học trò tính học bộ nào cho hay

Bào Tử Phược mong thày chỉ giáo
Mộng Thế Triền thế đạo xưa nay
Thánh hiền trăm bộ chuyên tay
Dẫn cười chú giải lỗi dày chuyên tâm

Xét nguồn gốc mở tầm tra cứu
Sách bách gia hai chữ ” Chiết trung”
Đạo đời kinh nghiệm của chung
Lương y từ mẫu tận cùng tâm can

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
28.3.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 19

Bản thảo xem trước ngăn sơ xuất
Tố Vấn sau coi thật bệnh tình
Phòng ngừa bốc thuốc hành kinh
Tốn công bào chế khéo tinh tường dùng

Ngoài thang dược tận cùng Y Doãn
Trong lo toan xét đoán nhiều phương
Theo ông Trọng Cảnh tìm đường
Đông Viên học phép nội thương tận tường

Này Hà Gian một chương nhiệt học
Tạp bệnh nhiều khó nhọc khuyên chàng
Đan Khê chớ có vội vàng
Họ Vương kinh mạch rộng đường thênh thang

Trương Tử Hòa vấn vương nghề thuốc
Có lắm khoa khéo bốc biếu thừa
Đầy tràn y lý hay chưa
Nhiều phương lắm lối từ xưa đến giờ

Đem so sánh ai ngờ cũng lỗi
Sạch dòng trong nguồn cội bao la
Ghi lòng tạc dạ lời ta
Nêu ngay bóng thẳng chiều tà dần phai

Ngư xin hỏi thờ ai trong miếu?
Dẫn trả lời đạo hiệu Phục Hy
Tổ xưa là một rừng y
Cao nhân thiên hạ thần kỳ theo sau

Truyền mười đời Qủy Du Khu dẫn
Tới Linh Khu Tổ Vấn sách biên
Nối theo vua thánh tôi hiền
Mười ba đặng kể họ tên nối dòng

Người thượng cổ trọn lòng y lý
Bốn mốt ông nho sĩ đại phu
Dày công đọc sách chuyên tu
Trương, Tôn bọn ấy ngao du một thời

Tần, Sào cũng trọn đời danh giá
Hàng trăm năm vàng đá sáng tươi
Minh y chín chục tám người
Thế y hai chục sáu cười tài hoa

Nhà nối nhà sáng lòa đức hạnh
Lâu, Từ từng hiển hách nghiệp cha
Trường Tăng theo gót thiết tha
Có mười chín họ nhân hà  quang vinh

Bao thế kỷ chúng sinh ngưỡng mộ
Hơn hai trăm thi thố tài năng
Ngàn năm soi sáng tuyết hằng
Tiếng thơm để lại xênh xang mọi đàng

Trước Phục Hy Tam Hoàng buổi đó
Tựu Thải kia đã mở mang nhiều
Dạy ông Kỳ  Bá bao nhiêu
Huyệt do kinh lạc lắm chiêu nhiệm màu

Phép châm cứu đua nhau học tập
Thuốc chẳng cần hòa nhập âm dương
Nội công vận khí thông thường
Tĩnh tâm ép độc trọn đường hiếu sinh

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
29.3.2020 Lu Hà



Y Đức Hai Họ Mộng Bào
cảm xúc thơ Nguyễn Đình Chiểu bài 20

Đạo Dẫn dặn trau mình ý thật
Phải coi chừng trời đất muôn hình
Lòng thành thần thánh tâm linh
Âm dương kinh lạc cần tinh tế vào

Thập nhị giáp hư hao cội phúc
Đủ ba trăm sáu chục lẻ năm
Toàn thân xương cốt ba trăm
Số dư sáu chục lẻ năm khác gì?

Đường kinh mạch suy vi năm tháng
Theo âm dương soi sáng huyệt danh
Chân kinh Hoàng Phủ thực hành
Cảnh Khôi cứu pháp dần thành chuyên môn

Mình Đường đồ bảo tồn bổ tả
Dò cho thông thiên hạ mấy ai?
“Chi công đoạt dược” chân tài 
Phép châm cứu ấy thái lai mở đường

Mộng Thế Triền hòai hương suy nghĩ
Phép ngoại khoa còn bí chưa ra
Ông nào danh giá  chuyên gia
Thâm sâu uyên bác gần xa tôn thờ?

Dẫn bảo rằng cậy nhờ Du Phủ
Thuở Hiên, Kỳ dụng cụ khác thường
Xẻ đầu, mổ bụng, cạo trường
Hoa Đà viết sách nhiều phương lạ kỳ

Có nhiều bậc thần y để lại
Sách ngoại khoa đủ loại cao thâm
Đan Khê truyền thụ ngang tầm
Bổ di mấy tập chuyên tâm học hành

Đọc nội kinh thêm rành y thuật
Khuyên các ngươi bác vật muôn loài
Sờ sâu khám kín trong ngoài
Tỏ lòng nhân đạo ngắn dài cưu mang

Có bốn điều sẵn sàng chỉ dẫn
Tâm pháp nhà vọng vấn thiết văn
Vọng coi thần sắc can ngăn
Đớn đau vấn hỏi băn khoăn ra vào

Nghe giọng nói thấp cao tách bạch
Thiết tận tay bắt mạch thực hư
Không quên lời dạy tôn sư
Trước sau tuần tự nhẫn từ duyên căn

Tâm làm chủ trở trăn luồng khí
Lực tàn suy thần trí mơ màng
Khô gày béo mập dở dang
Nhuận còn khô chết béo đang thực nằm

Gầy hư yếu ghé thăm biết bệnh
Dáng lom khom tê liệt lưng đau
Nhức đầu chóng mặt mày chau
Tay không nhấc nổi vai đau như dần

Bước khó nhọc ống chân buốt nhói
Ôm ngực ho lá phổi bị lao
Đè tay trước rốn cồn cào
Dạ dày gan ruột phều phào rên la

Không dậy được gật gà mất ngủ
Cổ ứ đờm lụ khụ nóng ran
Ngủ hòai bởi tại khí hàn
Co ro sát vách lạnh tràn toàn thân.

*Nguyên tác thơ lục bát: Ngư Tiều Y Thuật Vấn Đáp
29.3.2020 Lu Hà








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét