Tôi thích văn thơ từ thuở nhỏ, nhưng tôi mơ
mộng nhiều về môn toán. Tiếc thay sống dưới chế độ cộng sản khi người ta coi sự
học hành là quyền lợi danh vọng được ưu tiên cho những người thuộc thành phần
giai cấp cốt cán và con cháu những người mà họ cho là có công với cách mạng.
Gia đình tôi cũng có công với cách mạng, nhưng giai cấp cốt cán thì không. Bản
thân tôi cũng từng đi bộ đội nhưng tôi không có may mắn cho tư duy trí tuệ được
cất cánh bay cao theo con đường cử nghiệp. Tôi phải trải qua một cuộc sống chật
vật về kinh tế và tôi chỉ chăm chăm lo
toan cho miếng ăn hàng ngày. Thời gian sống lưu vong bất hợp pháp ở Cộng hoà
dân chủ Đức là thời kỳ kinh hoàng nhất của
đời tôi. Khi đó tôi mới ngoài 20 tuổi, tôi luôn luôn phải giở mọi thủ đoạn mưu
kế, để khỏi phải về Việt Nam. Chuyện đó cũng làm tôi mất thời gian và mệt mỏi
lắm rồi còn thú gì với văn chương thơ phú nữa.
Trải qua bao sóng gió trầm luân , những kinh
nhiệm từng trải, những xót xa yêu thương vùi dập của quá khứ, những hoài mộng
vấn vương đã tạo cho tôi cái cớ để bình tâm suy ngẫm mà học làm thơ, học viết
văn. Nay đời sống định cư đã ổn định, có máy tính, có thể lên mạng truy tìm
những bài cổ thi bất hủ, có nhiều điều kiện để đọc thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Nguyễn
Du, Nguyễn Trãi … Tôi thích lắm, biết rõ mình là người có khả năng . Ở hải
ngoại cũng lắm anh tài, mỗi người mỗi vẻ thi nhau sáng tác. Tâm hồn thi sĩ được
tự do cũng là cái may ở trong cái rủi của thân phận người Việt chúng ta khi phải sống tha
hương nơi đất khách quê người.
Rõ ràng so sánh dòng văn học hải ngoại và quốc
nội thì ở hải ngoại chất lượng nghệ thuật, nội dung, thi hứng cảm xúc đã đạt
đến thời vàng son của thời kỳ thơ mới 1930 đến 1945. Thơ đường luật, lục bát,
song thất lục bát lại trở về cội nguồn muôn thuở của dân tộc. Người ta làm thơ,
hoạ thơ lại của nhau, chuyển thể, dịch thể, cảm tác. Tư duy trí tuệ, thẩm mỹ
nhờ đó mà thăng hoa đâm chồi nảy lộc. Nhất là giới phụ nữ viết cũng rất hăng và
hiếm có trong lịch sử văn đàn Việt Nam, nhiều cây bút nữ lại tỏ ra rất xuất sắc
cả thơ và văn.
Nếu không có khối người lưu vong hải ngoại làm
thơ viết văn thì nền văn học Việt Nam không biết sẽ suy đồi, tàn tạ như thế nào?
Tôi không phải là nhà văn hay nhà thơ chuyên nghiệp, chẳng phải là giáo sư ,
tiến sĩ văn chương gì cả. Nhưng tôi có đọc qua mấy bài viết của các vị giáo sư
tiến sĩ đầu ngành về văn chương ở quốc nội sao mà ngao ngán quá. Tiến sĩ, giáo
sư gì mà viết văn lắm rằng thì là mà thế? Thôi kệ họ, họ thích khen ai tôn thờ
ai là việc của họ. Họ thích Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Phạm Tiến Duật là
việc riêng của cá nhân họ, của chế độ họ. Nhưng lịch sử văn chương, tư duy thẩm
mỹ, nghệ thuật có chấp nhận hay không còn là chuyện khác, còn là vấn đề sớm muộn
của thời gian?
Tôi không phải là con mèo có ý ngo ngoe bóng gió, khoe cái đuôi của mình. Những đã
dấn thân vào văn bút phải có cái kiêu của kẻ dũng, cái trí cuả kẻ sĩ. Kiêu đây
không phải là kiêu ngạo, tự phụ huyênh hoang coi thiên hạ chẳng ai ra gì. Kẻ
đáng khen đáng trọng về văn bút mà tự ta
cảm nhận thấy thì ta cứ nói thẳng thực lòng mình: Tôi rất khâm phục ông, còn kẻ
đáng khinh đáng phỉ nhổ thì cứ nói toạc móng heo ra, thơ ông tôi không ngửi được chỉ nặng về tuyên truyền
như nghị quyết và khẩu hiệu. Người ta khen các nhà thơ cộng sản viết bài nọ bài
kia cực hay, trí tưởng siêu phàm. Nhưng tôi đọc kỹ thì thấy chẳng có cái quái gì hết, tôi cứ nói toạc ra. Tại sao tôi phải sợ phải ngại ai đó la lối phản đối, dù họ
có căm phẫn ghét tôi ? Đó là ý kiến cuả tôi chân thật từ lòng mình. Thường
thường có điều lạ người ta khen thì tôi lại chê, người ta chê thì tôi khen, với những
lý do cụ thế này, thế này, và thế này… Phân
tích rạch ròi theo nhận thức cảm nhận của mình một con người tự do.
Nhưng ở
đời cũng khối kẻ điêu ngoa giả dối khen chê lếu láo, thiếu suy tư, cái đáng
khen thì chê thì chửi cho sướng cái mồm. Cái đáng chê thì cứ khen bừa để lấy
lòng. Loại người có trái tim chạy pin như thế nên bỏ qua. Nhưng họ cứ nặc danh để xỉ nhục tôi, thì tôi
buộc phải làm thơ đáp trả lại họ, dùng thơ để vả cho không còn cái răng nào nữa.
Tôi hoàn toàn trung thành với trái tim lương tâm của mình thì không có chuyện
bấn loạn, phiền não. Lúc nào cũng đàng hoàng vô tư bình chân như vại. Ở đời mình
không có tạp niệm trần căn là sướng rồi. Tôi nói cái kiêu của kẻ dũng ở đây
theo một hàm ý mình là người đàng hoàng tử tế thì việc quái gì phải dạ vâng khúm
núm dĩ hoà vi qúy cả với loại người tồi tàn. Không dám đương đầu chống lại
những cái tồi tàn tức là tâm hồn mình đã hèn đã chết rồi thì còn xúc cảm đâu mà
làm thơ hay viết văn? Tôi cũng như các bạn, tôi muốn học làm thi sĩ, tôi muốn
được hồi tưởng bày tỏ những cảm xúc hoài vọng, nhớ thương lẩn quất đâu đây
trong trái tim tôi và tâm hồn tôi. Ở lưá tuổi ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lại ở nước ngoài tôi có nhiều
thời gian yên tĩnh để học hỏi suy tư về thơ.Tôi nhớ lại những người phụ nữ mà
tôi đã từng mong đợi yêu thương. Có thể là tình yêu tự nguyện từ hai phiá, có
thể là tình yêu đơn phương, hoặc chưa hẳn đơn phương vì ý trời chưa thuận mà
thôi.Trùm thơ tình thứ mười là mô tả về một người phụ nữ hiện vẫn còn sống ở Việt Nam, Về cô ta tôi cũng muốn cho
các bạn được biết thêm. Vì thấy trang Web vẫn để đăng trùm thơ này. Xin được
chia sẻ với các bạn thêm những bài khác .
Lầm Lỡ
Lầm lỡ cho nên chuyện đã
rồi
Trái tim yêu dấu của lòng
tôi
Bao nhiêu năm tháng hằng
mong đợi
Em vẫn nhởn nhơ lạc cuối
trời
Ai biết đời tôi có tủi sầu
Trách người thục nữ hiểu
chưa ra
Trời cao chẳng được như
tâm nguyện
Trăng khuyết mây tàn em ở
đâu ?...
Ai nhớ bên ai một buổi nào
Ven đê chiều tỏ với trăng
sao
Về nhà lại kể ngay cho mẹ
Mang vết thương lòng bao
xót xa...
Từ đó trở đi tôi nín lặng
Mặc người thiên hạ khéo
tay hơn
Mong sao duyên phận như
thiên ý
Tôi chúc cho em được vẹn
tròn
Chứng giám cho con ở thế
trần
Suối vàng thác gửi tấm
lòng son
Nào ngờ duyên phận nơi
dương thế
Hoa bước lên thuyền dạ héo
hon
Kẻ muốn được yêu chẳng
được đâu
Lạnh lùng như thể áng mây
thu
Hững hờ cho đến già năm
tháng
Rồi lại tìm nhau đóa mộng
đầu...
Tôi biết làm sao được hở
trời
Cái thời ân ái lỡ buồn
trôi
Hương hoa gửi gắm cho
người khác
Tôi phải ra đi luống ngậm
ngùi
Nay đã phong sương dạn mái
đầu
Ngẩn ngơ nuối tiếc tấm
tình xưa
Thương em bóng lẻ hồn cô
quạnh
Vỗ gối năm canh hận má đào
Tôi đã lang thang khắp bốn
phương
Đời trai lãng tử kiếp
phong sương
Trùng dương khổ ải say màu
sóng
Rồi vẫn thương em một tấm
lòng
21.1. 2009 Lu Hà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét