Thứ Hai, 24 tháng 2, 2014

HIỆN TƯỢNG THƠ RỎM HOÀNG QUANG THUẬN PHẦN 79 VÀ 80



Hiện Tượng Thơ Rỏm Hoàng Quang Thuận Phần 79



 
 




Trích: Núi Non Nước

Dục Thủy tiền đồn canh thủy bộ
Án NGỮ kinh THÀNH cũ Hoa Lư
Vào ra thủy bộ hai đường hiểm
Phòng tuyến thành đô nước Đại Cồ

Hoàng quang Thuận


Bài này 2 lỗi phạmn qui

Dục thủy tiền đồn canh thủy bộ? một câu chữ Hán cóp nhặt vô duyên tối nghĩa. Dục thủy tiền đồn rồi lại canh thủy bộ có khác chi bố là cha tôi, cha tôi cũng là bố tôi hay ông nội là ông tôi cũng tức là bố của bố tôi.

Núi Non Nước (tên cổ là Dục Thúy Sơn), là một ngọn núi nằm ngay trên ngã ba sông Vân với sông Đáy, kẹp giữa 2 cây cầu Non Nước và cầu Ninh Bình. Núi là một tiền đồn nằm ở cửa ngõ phía đông thành phố Ninh Bình. Lối lên đỉnh Non Nước qua 72 bậc gạch đá, chia làm 5 cấp. Đỉnh núi tương đối bằng phẳng, cây cối xanh mát, rất thuận tiện nghỉ ngơi, giải trí cho khách tham quan.

Bên núi có chùa Non Nước và đền thờ danh sĩ Trương Hán Siêu đời Trần. Cửa sông Vân mở ra bao bọc ba mặt núi Dục Thúy, chỉ còn một mặt nối với đất liền. Hàng ngàn năm trước chân núi bị sóng biển bào mòn tạo thành vòm đá rộng che kín một góc sông Vân. Đây trở thành địa điểm tránh mưa cho tàu thuyền. Trên núi có hàng trăm bài thơ của các tao nhân mặc khách như: Trương Hán Siêu, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Thiệu Trị, Tự Đức, Phạm Sư Mạnh, Tản Đà, v.v.

Nước non Non Nước như thơ
Ai về Dục Thúy chẳng ngơ ngẩn lòng
Trên thì núi, dưới thì sông
Cúc vàng còn đó, hương nồng còn đây

Xưa núi là một vọng gác tiền tiêu bảo vệ thành Hoa Lư. Đặc biệt đây là nơi chứng kiến cuộc chuyển giao chế độ quan trọng trong lịch sử đất nước: từ bến Vân Sàng dưới chân núi, hoàng hậu nhà Đinh Dương Vân Nga đã trao áo Long Bào và chờ đợi ngày về cho tướng quân Lê Hoàn cầm quân đánh đuổi quân xâm lược nhà Tống lần thứ nhất, mở ra chiến thắng vang dội trong lịch sử dân tộc.

Trương Hán Siêu là người có công đầu phát hiện và khai thác vẻ đẹp của núi Non Nước. Ông đặt tên núi là Dục Thúy Sơn và là người đầu tiên lưu bút tích một bài thơ cho các thi sĩ đến thưởng ngoạn, ngắm cảnh làm những bài thơ khắc vào đá.

Riêng ông Thuận gọi Dục Thúy Sơn là Dục Thủy và còn nước Đại Cồ là nước nào? Trong lịch sữ chỉ có Đại Cồ Việt chứ làm gì có nước Đại Cồ, gà cồ? Bởi vì đầu óc ông bí rì rì như người bị táo bón rặn mãi không ra thơ. nên mới sảy ra cơ sự này. Chả là câu 2 chữ cuối cùng là " lu " và câu 4 chữ cuối ông nhét đại chữ " cồ " vào là xong.

Toàn là những: phòng tuyến, án ngữ, canh giữ, tiền đồ, quẩn quanh sáo ngữ y như lối nói bẻm mép vô nghĩa tối tăm theo kiểu học thuộc lòng cuả người cộng sản. Đây có phải là thơ đâu giống như lối nói ám hiệu của các chiến sĩ đặc cộng hay biệt động thành gì đó.

Xin có thơ sau:


Điạ Linh Nhân Kiệt

Đinh Tiên Hoàng Đế trấn phòng sơn
Phòng thủ Hoa Lư giữ nước non
Hai đường thủy bộ đều phong tỏa
Lãnh thổ lòng dân quyết chẳng sờn

Dãy núi Băng Sơn hồn Đại Việt
Lạc Thủy Thanh Hoa thế vững bền
Kinh đô kiên cố như bàn thạch
Vằng vặc ngàn thu những miếu đền

Lê Lý hai triều nối tiếp nhau
Vang danh bốn biển rạng sơn hà
Điạ linh nhân kiệt rồng tung cánh
Lồng lộng sông Hồng đất Đại La!

thơ làm nhân đọc 4 câu thơ ngêu ngao của Hoàng quang Thuận: Núi Non Nước
2.9.2012 Lu Hà


Trích: Vân Sơn

Vân Sơn bao bọc đền Đinh Lê
Phù ĐIÊU thủy MẠC đón NGƯỜI về
Trông XA núi BÁU gươm CÒN đó
Hoàng Long uốn lượn giữa Sào Khê.

Hoàng quang Thuận

6 lỗi cơ bản nhét vài hai lỗ mũi ông Thuận.

Vân Sơn bao bọc đền Đinh Lê ? Vân Sơn nào bao bọc đền Đinh Lê, nghe nói chôn ở Yên Sơn, vua Đinh ở đỉnh núi và vua Lê ở chân núi. Núi bao bọc đền đã thấy vô lý rồi.

Phù điêu thủy mạc đón người về? Chỉ được cái bẻm mép sáo rỗng mượn ở đâu hay cóp nhặt được chữ phù điêu và thủy mạc tả cảnh một bức tranh và đón người về là cai quái gì? Tối tăm vô nghĩa nhạt nhẽo ngán ngẩm vô cùng.

Trông xa núi báu gươm còn đó? Gươm nào còn đó chỉ được cái vớ vẩn? Chuyện rằng: Có ông chú cắm gươm trên đỉnh Vân Sơn cầu nguyện thì vưà lúc thấy Đinh Bộ Lĩnh bơi qua sông thấy có mây rồng bay qua thì ông chú nghĩ bụng cháu mình sẽ được làm vua. Núi này có gì mà báu, có vàng bạc kim cương đâu chỉ chữ viết thừa theo thói quen cửa miệng và khi ông chú cắm gươm rồi lại rút gươm mang về là dĩ nhiên rồi còn đâu gươm nưã mà ông Thuận: Trông xa núi báu gươm còn đó.

Hoàng Long uốn lượn giữa Sào Khê? Sông Hoàng Long uốn lượn theo triền núi, qua đồi, nương bãi là đúng nhưng sào khê là cái quái gì của cái thứ tiếng Tàu rẻ rách này? Một bài thơ tủn mủn có 4 chữ khô khan nhàm chán vô nghĩa.

Xin có thơ sau:

Vân Sơn Cắm Gươm

Vua Đinh coi chú cũng như cha
Duyên mệnh long nhan phận nước nhà
Gươm cắm rồng vàng ơn thúc phụ
Qua sông hoàng đế dựng sơn hà

Nuôi cháu lớn khôn thành bá nghiệp
Chiêu binh mãi mã lập cơ đồ
Công cha nghĩa mẹ kià non nuớc
Trên đỉnh Vân Sơn vạn cổ thu.

thơ làm nhân đọc 4 câu thơ nghêu ngao của Hoàng quang Thuận: Vân Sơn
2.9.2012 Lu Hà





Hiện Tượng Thơ Rỏm Hoàng Quang Thuận Phần 80



Trích: Sơn Trà

Sơn Trà Kim Cúc quanh chùa Thượng
Hoa VÀNG cánh NHỎ mọc VEN đường
Linh dược ngàn xưa đâu CÒN nữa
Chỉ còn hư ảo ở trong sương

Hoàng quang Thuận

4 lỗi nhét vưà vào 4 câu.


Sơn Trà Kim Cúc quanh chùa Thượng? Sơn trà và kim cúc có phải viết thưà thãi không khổ thơ chỉ có 4 câu? Bệnh nói dai quen nói thưà dài dòng cuả các đảng viên cộng sản cả khi làm thơ văn viết báo cáo nghị quyết cũng vậy. Sơn trà là cây thuốc cho qủa còn kim cúc là hoa cúc màu vàng đã nói mọc ven đường, sau lại linh dược ngàn xưa đâu còn nữa? Vưà khảng định rồi lại phủ nhận luôn là thế nào?
Hoa vàng cánh nhỏ mọc ven đường, rồi lại: Linh dược ngàn xưa đâu còn nữa? Câu nọ chửi cha câu kia, vừa mở miệng ra nói mọc ven đường rồi lại đâu còn nữa? Tráo trở lật lọng tiền hậu bất nhất. Chỉ còn hư ảo ở trong sương? Thơ với phú chẳng có ý nghĩa quái gì cả cũng thơ đây. Tủn mủn són ra 4 câu rời rạc nhí nhố chả ra sao cả.

Xin có thơ sau:
Hoa Kim Cúc

Sơn trà cung nữ dâng vua uống
Sáng mắt nhân gian lắm kẻ dùng
Mây vờn đỉnh núi mùi Kim Cúc
Linh dược mọc đâu lối nhớ nhung

Ai qua chùa Thượng thăm sư cụ
Ngắm đoá hoa vàng dưới nắng mai
Trà thơm khói tỏa tình lưu luyến
Đại Việt Hoa Lư mộng tưởng hoài

Thương nàng công chúa bàn tay ngọc
Nâng niu thưởng thức chén trà thơm
Để rồi lững thững ra bờ giếng
Biền biệt ngàn thu bóng tối om..,!

thơ làm nhân đọc 4 câu thơ tự do của Hoàng quang Thuận: Sơn Trà
2.9.2012 Lu Hà


Trích: Lâu Đài

Lạc lối lâu đài ở TRẦN gian
Rùa bơi rồng lượn cánh chim bàng
Tiên ông bầu rượu quên trần thế
Chú tiểu lom khom đứng bên bàn.

Hoàng quang Thuận

Hiếm hoi may quá bài này chỉ có một lỗi.

Lạc lối lâu đài ở trần gian? Ai lạc lối? Luôn quên chủ ngữ trong cậu.
Rùa bơi rồng lượn cánh chim bàng? Ông này tả vườn bách thú chứ đâu phải tả lâu đài. Ruà bơi, rồng lượn cánh chim bàng thì có quái gì đáng gọi là thơ.
Tiên ông bầu rượu quên trần thế? Tiên ông nào uống rượu say như anh Chí Phèo bên cô Nở ở cái lò gạch chứ có phải ở lâu đài đâu? Tiên ông thì cần trần thế cõi phàm tục làm quái gì mà quên? Đã là tiên còn sống trần trụi vật chất tham dục tham ái thì tiên cái con khỉ gì?

Chú tiểu lom khom đứng bên bàn? Chú tiểu dù sao cũng là một vị sư nhỏ mà đứng lom khom thì còn ra thể thống gì trong cảnh lâu đài mà ông Thuận tả rất say sưa phàm tục. Ông không có gan xỉ nhục sư cụ đứng lom khom ông mang chú tiểu ra để diễu cợt ;như cảnh chú tiểu làm bồi bàn cho tiên ông Nguyễn Trường Tô chủ tịch tỉnh Hà Giang đang hưởng lạc ấy?

Một bài thơ nham hiểm ngầm lăng mạ những người tu hành chứ tử tế gì đâu mà thơ.

Xin có thơ sau:

Lâu Đài Hồi Tưởng

Hang sâu tiên cảnh sương mờ ảo
Chẳng khác lâu đài cuả thế nhân
Phong rêu cổ kính hương hồn gọi
Nhũ đá muôn màu vọng tiếng ngân

Giai nhân tuyệt thế từ đâu lại
Nườm nợp về đây để gặp nhau
Thanh mai trúc mã duyên tình ngộ
Phụ lão run run bạc mái đầu

Nhìn lên con tạo nét hoa văn
Cẩm tú non sông đoá mộng trần
Muôn loài cầm thú sinh sôi nở
Lão tướng sa cơ lệ ưá tràn...!

thơ làm nhân đọc 4 câu nghêu ngao cuả Hoàng quang Thuận: Lâu Đài
2.9.2012 Lu Hà





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét